Theo Cục Hàng không Việt Nam, từ đầu năm 2024 đến nay, giá vé trung bình hạng phổ thông trên một số đường bay (giá đã bao gồm thuế, phí) của các hãng hàng không Việt Nam đều tăng so với cùng kỳ năm 2023, nhưng vẫn luôn bảo đảm nằm trong khung giá dịch vụ vận chuyển hành khách theo quy định hiện hành.
Cụ thể, với đường bay Hà Nội - TPHCM, giá vé trung bình của Vietnam Airlines khoảng 2,64 triệu đồng (tăng 14% so với cùng kỳ năm 2023), Vietjet Air khoảng 1,74 triệu đồng (tăng 25%), Bamboo Airways khoảng 2 triệu đồng (tăng 11%) và Vietravel Airlines khoảng 1,5 triệu đồng (tăng 15%).
Như vậy, so với mức giá tối đa theo quy định (3,4 triệu đồng, chưa bao gồm thuế, phí), mức giá vé trung bình này của các hãng hàng không Việt Nam chỉ ở mức từ 44,1% đến 77,6%.
Với đường bay từ Hà Nội và TPHCM đi, đến Đà Nẵng, giá vé trung bình của Vietnam Airlines khoảng 1,8 triệu đồng/đường bay (tăng từ 17-26%), Vietjet Air khoảng 1,3-1,5 triệu đồng/đường bay (tăng từ 32-38%), Bamboo Airways khoảng 1,3-1,6 triệu đồng/đường bay (tăng từ 13-29%) và Vietravel Airlines khoảng 1,1- 1,4 triệu đồng/đường bay (tăng từ 14-20%). So với mức giá tối đa theo quy định (2,89 triệu đồng, chưa bao gồm thuế, phí), mức giá vé trung bình này của các hãng chỉ ở mức từ 38,1-62,3%.
Ở đường bay từ Hà Nội - Phú Quốc, giá vé trung bình của Vietnam Airlines khoảng 2,7 triệu đồng (tăng 13,8%), Vietjet Air xấp xỉ 1,8 triệu đồng (tăng 49,6%). So với mức giá tối đa theo quy định (4 triệu đồng, chưa bao gồm thuế, phí) mức giá vé trung bình này của các hãng chỉ ở mức từ 45-68%.
Tương tự, đường bay từ Hà Nội - Nha Trang, mức giá vé trung bình của các hãng cũng chỉ bằng khoảng 42,6-60,8% so với mức tối đa theo quy định (3,4 triệu đồng, chưa bao gồm thuế, phí).
Cụ thể, giá vé trung bình của Vietnam Airlines khoảng 2 triệu đồng (tăng 7%), Vietjet Air khoảng 1,55 triệu đồng (tăng 39%), Bamboo Airways khoảng 1,45 triệu đồng (tăng từ 3%).
Theo Cục Hàng không Việt Nam, giá vé/km trên các chặng nội địa của Vietnam Airlines đang áp dụng ở mức tương đương với các hãng trong khu vực Đông Nam Á, thấp hơn đáng kể so với các hãng châu Âu và Bắc Mỹ.
Lý giải về những tác động khiến giá vé máy bay cao, Cục Hàng không Việt Nam cho rằng, đây là xu hướng chung trên thế giới do chịu tác động bởi các nguyên nhân chính như giá nhiên liệu tăng cao; chênh lệch tỷ giá ngoại tệ; việc triệu hồi động cơ của Nhà sản xuất Pratt & Whitney (PW); giá thuê tàu bay tăng cao; tình hình cung cầu vận tải hàng không.
Theo tính toán, với biến động của giá Jet A1 và tỷ giá USD/VND, chi phí nhiên liệu tháng 4 của các hãng hàng không tăng 56,55% so với tháng 12-2014 và tăng 74,27% so với tháng 9-2015. Điều này tác động làm tổng chi phí tăng 37,66% so với tháng 12-2014 và tăng 53,24% so với tháng 8-2015 (thời điểm ban hành quy định về khung giá vận chuyển trên chặng bay nội địa).
Biến động của tỷ giá cũng khiến chi phí của các hãng hàng không tăng gần 6% so với cùng kỳ năm trước. Tỷ giá bình quân trong quý II tăng làm chi phí tăng (do nhiên liệu) mỗi chuyến bay 23 triệu đồng, chưa kể do chi phí thuê máy bay, giá điều hành bay quốc tế
Về thiếu hụt máy bay, tính đến ngày 2-5, tổng số máy bay của các hãng hàng không Việt Nam là 199 chiếc, giảm 32 máy bay so với năm 2023. Trong đó, số lượng máy bay đang khai thác thực tế dao động từ 165-170 máy bay, giảm khoảng 40-45 máy bay so với bình quân máy bay khai thác trong năm 2023.
Kế hoạch nhận máy bay của các hãng hàng không trong năm 2024 cũng bị ảnh hưởng. Vietjet Air sẽ không nhận thêm máy bay nào; Vietnam Airlines chỉ nhận thêm 2 máy bay B787 vào tháng 6 và tháng 7. Các hãng hàng không khác thông báo không tìm được máy bay thuê theo kế hoạch.
Tình trạng chênh lệch cung cầu dự báo sẽ tiếp tục xảy ra vào cao điểm hè 2024. Điều này cũng gây áp lực nhất định lên giá vé trên các chặng bay nội địa, nhất là các chặng bay đến các điểm du lịch, nghỉ dưỡng.
Kết quả, 3 tháng đầu năm 2024, sản lượng của các hãng hàng không Việt Nam đạt hơn 13 triệu khách, giảm 5% so cùng kỳ 2023. Trong đó, vận chuyển nội địa đạt hơn 8,5 triệu, giảm 18%; vận chuyển quốc tế đạt 4,5 triệu khách, tăng 35,5%.