
Ngày 31-7, một tờ báo nổi tiếng quốc tế là National Geographic (NG) có giới thiệu một bài viết của nhà báo Daniel Stables. Ông là nhà báo nổi tiếng người Anh chuyên viết về du lịch, các bài báo của ông giới thiệu về các điểm du lịch. Những bình luận của ông quanh chuyện du lịch có sức ảnh hưởng rất lớn đến bạn đọc trên thế giới.
Daniel Stables giới thiệu đến bạn đọc quốc tế 8 điểm phải đến ở Việt Nam, mà ông gọi là những điểm đến khiến bạn sẽ nhận được những trải nghiệm sâu sắc và cảm động. Điều lạ là 8 điểm ấy đều là những điểm di tích lịch sử chiến tranh của Việt Nam trong thời hiện đại: Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh; Dinh Thống Nhất; địa đạo Củ Chi; khu chứng tích Sơn Mỹ (Quảng Ngãi); khu phi quân sự (DMZ), địa đạo Vĩnh Mốc (Quảng Trị); Bảo tàng lịch sử quân sự; nhà tù Hỏa Lò (Hà Nội).
Đúng là những nơi này thu hút khách trong và ngoài nước với số lượng khá lớn. Chẳng hạn như Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh đón trung bình khoảng 500.000 lượt khách mỗi năm, trong vòng 35 năm hoạt động đã có hơn 15 triệu lượt khách tham quan. Mỗi ngày mở cửa, khách nước ngoài có thể lên đến 5.000-9.000 lượt khách.
Dinh Độc lập, riêng năm 2024 đón gần 1,5 triệu lượt du khách, trở thành một trong những điểm đến hàng đầu của TPHCM. Tương tự, hàng năm Khu di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi đón tiếp hơn 1 triệu lượt khách trong nước và quốc tế đến tham quan. Trong 6 tháng đầu năm 2025, khu di tích cũng đã đón tiếp hơn 717.000 lượt khách, trong đó có 410.000 lượt khách nước ngoài.
Nhà tù Hỏa Lò cũng là nơi hút khách, trung bình mỗi ngày có hơn 2.000 lượt khách, trong đó đa phần là khách nước ngoài. Khách du lịch từ Mỹ gọi nơi này là “Hilton Hà Nội”, và họ muốn nhìn tận mặt nơi giam giữ và sinh sống của gần 1.000 phi công, kỹ thuật viên, xạ thủ trên các máy bay.
Từ xưa đến nay, khách du lịch thường dành thời gian cho việc thăm thú các danh lam thắng cảnh, công trình kiến trúc, ít có tour du lịch thuần túy là di sản chiến tranh. Trên thế giới, các câu chuyện chiến tranh thường nằm trong các bảo tàng, khách muốn tìm hiểu về cuộc chiến tranh nào cứ đến bảo tàng.
Nơi đó có các hiện vật, hình ảnh và thuyết minh. Còn các điểm di tích chiến tranh thường ở ngoài trời và rất hiếm, có thể do khó khăn trong bảo quản trước thời gian, thời tiết, cũng có thể chúng chiếm khoảng không gian lớn. Do vậy, những di tích lịch sử chiến tranh nằm bên ngoài như ở Việt Nam rất thu hút khách.
Chẳng hạn di tích lịch sử chiến tranh ngoài trời mở cửa cho du khách ở Nga, do chỉ tồn tại có một điểm đến riêng biệt, nên khách du lịch đến thăm như một điểm trong một chuỗi các sự kiện. Đó là pháo đài Brest - nơi diễn ra trận đánh đầu tiên khi phát xít Đức xâm lược Liên Xô.
Hay khách du lịch có thể đến thăm lò thiêu xác khổng lồ của phát xít Đức ở Auschwitz, miền Nam Ba Lan như một công trình đơn lẻ. Ngày nay nhiều người còn tiếc nuối vì những gì còn lại của cuộc đổ bộ lên bãi biển Normandy, Pháp vào ngày 6-6-1944 của 160.000 quân đồng minh tấn công quân phát xít Đức.
Ông Thomas, Giáo sư trường Đại học Maryland, cựu binh tham chiến tại Việt Nam, trở lại chiến trường xưa nhiều lần để nghiên cứu về chiến tranh Việt Nam, đã từng nói: Tại sao Việt Nam không xây dựng nên một loại hình “du lịch chiến tranh”, bởi các di sản, di tích chiến tranh của Việt Nam rất nhiều, phong phú, đặc biệt có khá nhiều di tích chiến tranh ngoài trời trong trạng thái tự nhiên, lại trải dài trên lãnh thổ quốc gia, dường như đi đâu cũng gặp di sản, di tích của chiến tranh.
Nếu nói theo chiều dài lịch sử của thời gian, Việt Nam có di tích chiến tranh ngoài trời từ thời xa xưa, dù không nhiều nhưng vẫn có như bãi cọc Bạch Đằng chống quân Nguyên-Mông từ thời nhà Trần; gò Đống Đa nơi ghi dấu ấn Quang Trung đại phá quân Thanh...
Theo ông Thomas, có thể hình thành 2 loại “du lịch chiến tranh”: một là du lịch thông thường kết hợp với tham quan di tích chiến tranh, hai là du lịch chuyên biệt về chiến tranh - đây là loại hình dành cho các nhà nghiên cứu, những người đã từng có mặt tại Việt Nam trong giai đoạn chiến tranh nay còn sống.
Họ muốn đến tận nơi, tai nghe, mắt thấy, tay sờ về quá khứ mà cha ông họ đã can dự. Nhiều sinh viên và học giả thực sự muốn giải mã chiến tranh Việt Nam, mà không thể tìm ra được câu trả lời khi còn ở xa thực địa.
Một trong những điều thú vị ông Thomas phát hiện ra, là ở bất cứ điểm “du lịch chiến tranh” nào của Việt Nam người ta có thể liên kết, liên tưởng đến những điểm khác một cách logic, điều mà các di tích chiến tranh ở nước ngoài rất khó làm được. Chẳng hạn người ta đứng ở cầu Hiền Lương, nhưng có thể được dẫn giải đến 12 ngày đêm ở Hà Nội, đến thành cổ Quảng Trị và ngày 30-4 lịch sử.
Nhưng để hình thành được các tour “du lịch chiến tranh” ngoài trời, theo ông Thomas, Việt Nam nên làm các việc sau: Thứ nhất, liên kết các điểm “du lịch chiến tranh” thành từng chuỗi theo các chủ đề sao cho thật logic, giống như một chuyện có dẫn dắt, có mở và có kết.
Thứ hai, bảo vệ thật tốt các hiện vật đang có, không nên để bị hư hỏng rỉ sét như hiện nay. Đúng là ở hầu hết các điểm trưng bày hiện vật có hiện tượng xe tăng, pháo, máy bay bị hư hỏng, gỉ sét, lốp xe bị nứt, bụi bám đầy, nhiều nơi còn bị ngập nước và cỏ mọc.
Những hiện vật quý thì không nên mang ra ngoài trời, mà phải có nhà bảo quản hay trưng bày phiên bản. Thí dụ rõ nhất là các máy bay MIG 21 hiện trưng bày đang xuống cấp nặng. Loại này Nga không còn sản xuất nữa, nếu không bảo quản tốt hậu thế sẽ không nhìn thấy nó.
Thứ ba, trong diễn tiến lịch sử, có nhiều hiện vật không còn tồn tại nữa thì phải mua ở nước ngoài, hay phục dựng lại, chẳng hạn các vũ khí thời Pháp. Trường hợp nước Nga sau năm 1990, mang hết xe tăng cũ nấu chảy rồi phải mua lại xe tăng T.34 của Lào về phục vụ cho các hoạt động lịch sử là một thí dụ cho trường hợp này.
Thứ tư, tăng tính hấp dẫn của các điểm du lịch bằng cách kết hợp truyền thống với hiện đại, tuy nhiên với di tích lịch sử không nên quá lạm dụng thực tế ảo qua 3D, bởi hiện vật sống có giá trị riêng của nó.
Tôi đã từng hỏi GS. Thomas: Tại sao ông lại khuyến khích phát triển loại hình “du lịch chiến tranh”, nó khơi gợi lại sự đau thương và chết chóc, trong khi khách du lịch cần thư giãn và vui vẻ. GS Thomas trả lời: “du lịch chiến tranh” chính là du lịch hòa bình. Việt Nam là minh chứng sống cho bài học lấy chiến tranh để giành lấy hòa bình.