FCI – Chỉ số điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam

(ĐTTCO) - Hiện nay ở Việt Nam, hầu như các chỉ số kinh tế đóng vai trò là “nguyên liệu” đầu vào cho công tác hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ, như tăng trưởng GDP, tăng trưởng tín dụng, biến động lãi suất, tỷ giá hối đoái, thâm hụt ngân sách, tình hình nợ xấu…
FCI – Chỉ số điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam
Tuy nhiên, trong thực tiễn các chỉ số này đều có sự tương tác và ràng buộc lẫn nhau, cộng với sự phức tạp của khu vực tài chính nên chưa phản ảnh đầy đủ những đặc trưng của khu vực này. 
Trong khi đó, cơ quan điều hành chính sách tiền tệ ở các nước trên thế giới từ lâu đã xây dựng một chỉ số tổng hợp, nhằm phản ánh các điều kiện tài chính chung của cả nền kinh tế theo thời gian, cũng như đánh giá tác động của các điều kiện tài chính đến triển vọng tăng trưởng kinh tế trong ngắn và dài hạn. Đó gọi là Chỉ số Điều Kiện Tài Chính – FCI (Financial Conditions Index).
Không thể thiếu cho các nhà hoạch định chính sách 
FCI là chỉ số tổng hợp, tóm tắt tất cả các thông tin về điều kiện tài chính có liên quan đến triển vọng của nền kinh tế. Việc sử dụng một tập hợp lớn các thông tin từ các biến tài chính khiến cho FCI có nhiều đặc tính ưu việt, trong đó quan trọng nhất là những thông tin tổng quát nhất, phản ánh chính xác điều kiện tài chính hiện tại cũng như tăng khả năng dự báo hoạt động kinh tế trong tương lai. Do đó, FCI rất hữu ích cho các nhà hoạch định chính sách, doanh nghiệp, nhà đầu tư lẫn công chúng trong việc nắm bắt và dự báo được triển vọng của nền kinh tế, thông qua việc nhận diện được các tín hiệu thắt chặt hay nới lỏng của các điều kiện tài chính, để từ đó có thể đưa ra được các chính sách điều tiết cần thiết và kịp thời (đối với Chính phủ), hoặc hoạch định được các quyết định tài trợ, đầu tư, tiêu dùng và tiết kiệm (doanh nghiệp, nhà đầu tư và công chúng). 
FCI – Chỉ số điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam ảnh 1 Chỉ số FCI và tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam 
Dựa trên nguyên tắc đo lường FCI, nếu kết quả của FCI thể hiện giá trị dương, cho thấy các chính sách điều tiết thị trường tài chính đang có xu hướng gia tăng sự kìm hãm lên các điều kiện tài chính. Ngược lại, một sự sụt giảm hay giá trị âm của chỉ số FCI thể hiện sự nới lỏng hơn của các điều kiện tài chính so với mức trung bình. Một cách trực quan, có thể dễ dàng nhận thấy những biến động ngược chiều giữa FCI và tăng trưởng GDP. Các giai đoạn điều kiện tài chính thắt chặt (FCI tăng mạnh), thường dự báo trước sự sụt giảm trong tăng trưởng sản lượng (GDP) và ngược lại.
Kiểm chứng độ chính xác của FCI
Việc chỉ sử dụng một vài chỉ số tài chính riêng lẻ như cách làm hiện nay để phản ánh các điều kiện tài chính, sẽ dẫn đến việc phát ra những tín hiệu không chính xác, điều này sẽ gây lệch lạc hoặc giảm  hiệu quả của việc hoạch định và điều hành các chính sách kinh tế hoặc ra các quyết định chi tiêu và đầu tư.
Đối chiếu kết quả nghiên cứu diễn biến chỉ số FCI của Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2002 - 2017 với các bước đi trong điều hành chính sách và thực tiễn của nền kinh tế Việt Nam, có thể thấy FCI đã phản ánh khá chính xác các diễn biến của khu vực tài chính. Các mức giá trị và sự biến động của chỉ số FCI hoàn toàn tương thích với các giai đoạn thắt chặt hay nới lỏng các điều kiện tài chính tại Việt Nam trong từng giai đoạn. 
Cụ thể, chỉ số FCI mang giá trị âm trong suốt giai đoạn từ năm 2002 đến nửa đầu năm 2007, phản ánh chính sách tiền tệ đã được nới lỏng trong giai đoạn này, nhằm thực hiện quá trình phục hồi nền kinh tế sau khi Việt Nam phải hứng chịu các cú sốc từ cuộc khủng hoảng tài chính châu Á trong giai đoạn từ 1997-1999. Sau đó, chỉ số FCI tăng vọt từ cuối năm 2007, cho thấy Chính phủ đã thực hiện thắt chặt tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát và chỉ số FCI đạt đỉnh vào quý 2-2008 khi Ngân hàng Nhà nước (NHNN) điều chỉnh nâng lãi suất cơ bản lên 14%/năm. 
Trong các giai đoạn tiếp theo, FCI liên tục biến động phản ánh sự điều chỉnh liên tục của chính sách tiền tệ và các điều kiện tài chính, như nới lỏng vào nửa cuối 2008 đến nửa đầu 2009 (chỉ số FCI giảm và đạt giá trị âm vào quý 1-2009 khi NHNN điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản xuống 7%); thắt chặt từ cuối 2009 đến đầu 2010; quay lại nới lỏng để hỗ trợ tăng trưởng một thời gian ngắn trong năm 2010; sau đó thắt chặt đến hết năm 2011 (FCI một lần nữa đạt đỉnh dương vào cuối năm 2011 khi NHNN điều chỉnh tăng lãi suất tái cấp vốn lên 15%, tăng lãi suất chiết khấu lên 13%/năm). Bước sang năm 2012, trước xu hướng giảm của lạm phát, chính sách tiền tệ bắt đầu được nới nỏng, các điều kiện tài chính trở nên “dễ thở” hơn, chỉ số FCI cũng giảm sâu đến mức 1,19% vào quý 3-2012. Trong các năm tiếp theo, chính sách tiền tệ đã được điều tiết khá ổn định, có xu hướng nới lỏng để tiếp tục hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, đồng thời ổn định mức giá. Các điều kiện tài chính này được phản ảnh thích hợp qua FCI với các giá trị âm trong giai đoạn này và sự biến động tương đối ổn định. 
Một tín hiệu đáng mừng có thể nhận thấy là chỉ số FCI trong những năm gần đây đang có xu hướng tiến gần và xoay quanh mức 0 – ngưỡng cho thấy các điều kiện tài chính đang ở mức trung bình của cả giai đoạn 2002 – 2017, được xem là thời kỳ năng động nhất của khu vực tài chính Việt Nam nói riêng và nền kinh tế nói chung. Điều này đã thể hiện chính sách tiền tệ đang được điều hành một cách thận trọng và phù hợp với các điều kiện kinh tế vĩ mô. Rõ ràng duy trì được FCI xoay quanh ngưỡng này trong các năm tiếp theo sẽ là thành công lớn góp phần ổn định nền kinh tế, hỗ trợ tăng trưởng mà không gây ra áp lực lạm phát cao.
Dự báo và giải trình hiệu quả chính sách
Với các nhà hoạch định chính sách, ứng dụng quan trọng của FCI không chỉ nằm ở vấn đề dự báo, mà còn trong khía cạnh giải trình hiệu quả chính sách. Chẳng hạn khi NHNN nâng lãi suất chính sách lên, câu hỏi được đặt ra là tác động của điều này đến thị trường xấu đến đâu để các đại biểu quốc hội có cơ sở chất vấn và các cơ quan hoạch định chính sách khác về hành động thích ứng. 
Hoặc trước đây, cách làm phổ biến mà chúng ta thường thấy là các chuyên gia sẽ đưa ra một vài câu chuyện về tác động của chính sách tiền tệ, rồi rút ra kết luận từ một hoặc hai câu chuyện quan sát được. Điều này ở một mức độ nào đó là cần thiết và có ý nghĩa để giúp người theo dõi hiểu được các vấn đề chính sách một cách cơ bản và dễ hiểu, nhưng có thể dẫn đến kết luận sai lệch, vì kết luận chỉ được thiết lập trên một vài quan sát riêng lẻ. Hơn nữa, nhiều khi người kể chuyện chọn câu chuyện rất hay, đi vào lòng người thì lại tăng thêm cảm tính vào trong kết luận hay suy nghĩ của người đọc (trong đó có các đại biểu quốc hội và người làm chính sách). Đó là chưa kể hai chuyên gia quan sát các đối tượng khác nhau thì rút ra kết luận khác nhau, thế là tranh cãi không biết ai mới đúng.
Ngoài ra, FCI cũng có thể giúp nhà đầu tư dự đoán biến động của thị trường chứng khoán trong vài quý tiếp theo, vì nó có thể phản ánh xu thế của chính sách tiền tệ, qua việc phản ánh điều kiện tài chính là đang siết chặt hay nới lỏng, để đưa ra dự báo về xu thế của dòng tiền, dòng tín dụng vào chứng khoán, những yếu tố ảnh hưởng quan trọng đến giá cổ phiếu. Nó cũng có thể giúp các nhà đầu tư đánh giá được các điều kiện tài chính năm nay là “chặt”, hay “lỏng” hơn so với các năm khác, nếu được thiết kế phù hợp có thể là một thước đo rộng hơn của xu thế chính sách tiền tệ trong trung và dài hạn qua một chỉ số.
Khoa Tài Chính trường Đại học Kinh Tế TPHCM đã nghiên cứu để đo lường và công bố chỉ số FCI của Việt Nam trong giai đoạn từ quý 4-2002 đến quý 1-2017 dựa trên dữ liệu của các nhóm yếu tố về lãi suất, tỷ giá hối đoái, nhóm yếu tố giá cả thị trường và nhóm yếu tố tín dụng. Phương pháp nghiên cứu để đo lường chỉ số FCI tương tự như các nghiên cứu trước đây đã được công bố bởi các tổ chức thế giới. Dự kiến định kỳ sẽ công bố chỉ số FCI để phục vụ cho nhiều đối tượng sử dụng khác nhau. Trong quá trình này sẽ tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện để cải thiện chỉ số FCI sát với các diễn biến của kinh tế trong nước và thế giới nhiều hơn nữa.

Các tin khác