Hãy trân trọng hòa bình, giữ gìn môi trường và phát triển đất nước một cách bền vững

(ĐTTCO)-Nhân kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30-4-1975 - 30-4-2025), phóng viên có cuộc trò chuyện với Thượng tướng, Viện sĩ, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Huy Hiệu, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, về những kỷ niệm một thời khói lửa và gửi lời nhắn nhủ tới thế hệ mai sau.

PHÓNG VIÊN: Thưa Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ông đã tham gia nhiều chiến dịch lớn - những chiến dịch đã tạo chiến thắng vang dội và rất đỗi tự hào. Ông có thể chia sẻ kỷ niệm đáng nhớ nhất của mình khi cùng đồng đội chiến đấu trong những năm tháng khói lửa đó?

Thượng tướng, Viện sĩ, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Huy Hiệu, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng

* Thượng tướng NGUYỄN HUY HIỆU: 60 năm đời binh nghiệp, tôi tham gia 4 chiến dịch lớn: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, Đường 9 - Nam Lào 1971, Quảng Trị 1972, Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975. Kỷ niệm sâu sắc nhất là cuộc hành quân thần tốc trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975.

Ngày 18-3-1975, khi là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 27, Sư đoàn 320B, Quân đoàn 1, tôi nhận lệnh hành quân bằng cơ giới từ Tam Điệp (Ninh Bình) vào Đông Hà (Quảng Trị), làm dự bị cho giải phóng Huế - Đà Nẵng. Tuy nhiên, khi tôi vào tới Huế ngày 26-3, Huế đã được giải phóng. Ngày 29-3, tôi tới bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng cũng được giải phóng. Trung đoàn được lệnh quay ra Đông Hà, hành quân theo đường Trường Sơn, tập kết tại Đồng Xoài, chuẩn bị cho Chiến dịch Hồ Chí Minh.

Trên đường hành quân tới đèo Ang Bun, chúng tôi nhận được bức điện của Đại tướng Võ Nguyên Giáp qua đài 15W: “Thần tốc, thần tốc hơn nữa! Táo bạo, táo bạo hơn nữa! Tranh thủ từng phút, từng giờ, xốc tới miền Nam! Quyết chiến và toàn thắng!”, ký tên Anh Văn. Lệnh truyền xuống, anh em dù mệt cũng bừng lên khí thế, tiến vào Bình Phước, sẵn sàng cho trận đánh cuối cùng.

Đêm 29-4, đến Búng (cách Lái Thiêu, Thủ Dầu Một khoảng 10km), chúng tôi phát hiện một ngôi nhà có mái lá, đang được thắp sáng bằng ánh đèn dầu. Chúng tôi dự đoán đây có thể là một cơ sở cách mạng, tôi và đồng chí Chính ủy Trung đoàn Trịnh Văn Thư cùng đội trinh sát tiếp cận, phát tín hiệu “Hồ Chí Minh” 3 lần. Một lát sau, có bà má mở cánh cửa đáp lại 3 lần: “Muôn năm” đúng mật khẩu của mặt trận.

Tôi cho tổ trinh sát bố trí bảo vệ vòng ngoài, tôi và anh Thư vào nhà. Trong nhà bày một cái bàn đơn sơ, trên bàn có một chiếc đèn dầu đang được thắp sáng, lúc đó có em Phước và em Đức con má ngồi bên. Tôi thưa với má: “Con là chỉ huy quân giải phóng, chúng con có nhiệm vụ theo trục đường 13, ngày mai 30-4 sẽ đánh qua Lái Thiêu chiếm cầu Vĩnh Bình và đánh chiếm Bộ Tư lệnh Thiết giáp Việt Nam Cộng hòa ở Gò Vấp.

Nếu má có thông tin thì giúp chúng con”. Tôi đưa bản đồ chỉ huy cho má nhìn, lúc đó má đeo một kính trắng, má xem và nói: “Má không rành bản đồ này”. Rồi má vào trong phòng lấy ra một tấm bản đồ đô thành Sài Gòn, đã ghi các điểm đối phương phòng thủ. Má nói: “Cách đây 5 cây số có trại Huỳnh Văn Lương có khoảng gần 2.000 hạ sĩ quan, Đại tá Hinh chỉ huy. Sáng mai, các con không cần đánh mà kêu hàng, rồi nhanh chóng đánh qua quận lỵ Lái Thiêu, phải chiếm được cầu Vĩnh Bình, nếu không xe của các con sẽ không vào được nội đô”.

Tôi hỏi má có con đường nào khác để vào Sài Gòn không? Má nói chỉ có cầu sắt Lái Thiêu, nhưng xe tăng không đi được, chỉ có bộ binh đi được; tiếp đó má nói sáng mai cả gia đình má có em Phước 16 tuổi, em Đức 14 tuổi dẫn đường. Tôi nói: “Thưa má, các em còn nhỏ, cứ ở nhà; chúng con đã có cô Hai Mỹ và Sáu Châu cùng đơn vị dẫn đường. Chúng con giải phóng xong Sài Gòn sẽ về thăm cảm ơn má và đồng bào”.

Sau đó, chúng tôi về tổ chức ngay trong đêm. 4 giờ 30 ngày 30-4, chúng tôi bắt đầu đội hình tiến công theo kế hoạch. Tôi đã đưa tiểu đoàn 5 vào Lái Thiêu trước, khi tiến công trên trục đường 13 đến ngã ba Lái Thiêu, ta bắn cháy 3 xe tăng và bắt sống 1 pháo 175 “vua chiến trường”. Đơn vị tiếp tục tiến công đến cầu Vĩnh Bình khoảng 9 giờ, đồng chí Hoàng Thọ Mạc là đại đội trưởng xe tăng, báo xe bị hỏng, đồng chí xuống chỉ huy súng B40, B41 bắn cháy 3 xe, các hỏa lực bắn kiềm chế đối phương và chúng tôi đã chiếm được cầu Vĩnh Bình. Không may đồng chí Hoàng Thọ Mạc bị thương nặng và hy sinh, chúng tôi đưa đồng chí lên xe tăng và tiếp tục tiến công.

10 giờ, chúng tôi chiếm được Bộ Tư lệnh Thiết giáp và 13 căn cứ lục quân công xưởng, tiếp quản Tổng y viện Cộng hòa (nay là Bệnh viện 175), sau đó bắt liên lạc với các đơn vị bạn để đánh tiếp mục tiêu trong nội thành Sài Gòn. Ngay sau giải phóng, Báo Quân đội Nhân dân đã đăng bài “Bà má tham mưu của trung đoàn”, sau đó nhạc sĩ Văn Thành Nho cũng đã phổ nhạc bài hát Tấm bản đồ má trao. Giữ lời hứa với má, hôm sau chúng tôi về thăm, cảm ơn má và đồng bào. Dọc hai bên đường Lái Thiêu, đồng bào vẫy cờ hoa chào đón và tặng rất nhiều hoa trái.

Trong số các trận đánh mà Thượng tướng từng tham gia, trận nào để lại ấn tượng sâu sắc nhất?

* Trong sự nghiệp quân ngũ, tôi đã tham gia 67 trận, nhưng nhớ nhất là trận đánh vào tháng 4-1970 ở điểm cao 544, thuộc huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. Đây là khu vực giáp ranh giới tuyến (vĩ tuyến 17), nơi đối phương thiết lập hệ thống phòng thủ dày đặc. Khi đó tôi là Đại đội trưởng Đại đội 2, Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 27/B5.

Chúng tôi nhận nhiệm vụ tiêu diệt một cụm cấp đại đội thuộc Lữ đoàn 1, Sư đoàn 5 bộ binh cơ giới Mỹ. Lữ đoàn 1 áp dụng chiến thuật “Trâu rừng” của Tướng Abrams, ban ngày càn quét bằng phi pháo, xe tăng, xe bọc thép; ban đêm co cụm phòng thủ, biến xe tăng thành hỏa lực chi viện và có các công sự dã chiến được bao bọc bờ hàng rào thép gai và lưới B40 chống hỏa lực. Nếu đánh theo lối thông thường, ta dễ mắc bẫy.

Nhận nhiệm vụ, tôi chọn chiến thuật luồn sau, đánh phía sau và hai bên sườn. Lúc đó, tôi là Đại đội trưởng, đồng chí Di là Chính trị viên, đồng chí Thuẫn là Trung đội trưởng 1, đồng chí Viêm là Trung đội trưởng 2, đồng chí Tam là Trung đội trưởng 3. Chúng tôi chia làm 3 mũi, nghiên cứu kỹ quy luật hoạt động của đối phương, rồi tổ chức cán bộ, chiến sĩ trang bị gọn nhẹ, hành quân dọc sông Cam Lộ (Quảng Trị), tránh để lộ dấu vết. Bốn ngày đêm liền, cả đơn vị chỉ ăn lương khô, uống nước lã, sức khỏe giảm sút. Đêm 4, rạng sáng ngày 5-4-1970, chúng tôi nghe tiếng pháo cối đối phương, đoán vị trí bộ binh cơ giới. Đến 22 giờ, qua ánh sáng pháo sáng, Đại đội 2 phát hiện 3 cụm cơ giới Mỹ. Nhận định cụm Sáp Đá Mài là sở chỉ huy của đối phương, tôi tập trung tiêu diệt cụm này.

Sau trinh sát, tôi xác định cụm chỉ huy gồm 16 xe tăng bố trí hình vòng cung, nhiều nhà bạt, cột ăng-ten. Đơn vị chia 3 mũi áp sát. 3 giờ 15 ngày 5-4, các mũi vào vị trí. 3 giờ 40, tôi cùng tổ luồn sâu tiếp cận sở chỉ huy đối phương, cách 15m thì tôi lệnh cho đồng chí Khoét - xạ thủ B41, nổ súng. Hai quả B41 bắn cháy xe chỉ huy, cả đại đội xung phong. Trận đánh diễn ra ác liệt, 16 xe tăng đối phương bị bắn cháy và tiêu diệt, chúng ta làm chủ trận đánh. Gần sáng, tôi và chính trị viên lệnh rút từng tổ nhỏ, phân tán để bảo toàn lực lượng. Đại đội 2 đã góp phần đánh bại chiến thuật “Trâu rừng” của Tướng Abrams. Sau trận này, đơn vị và cá nhân tôi được khen thưởng; tôi được bổ nhiệm làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 3 chủ công của Trung đoàn 27, Mặt trận B5.

Trong bối cảnh thế giới nhiều biến động, Thượng tướng có lời chia sẻ gì về chiến lược quốc phòng cho Việt Nam và thông điệp nào gửi đến thế hệ trẻ về tinh thần yêu nước, trách nhiệm với đất nước?

* Trước tình hình thế giới phức tạp, Việt Nam phải chủ động dự báo từ sớm, từ xa, giữ thế chủ động chiến lược trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là nghệ thuật chiến tranh nhân dân, lấy thế trận lòng dân làm nền tảng, thắng bằng trí tuệ và sức mạnh tổng hợp trong thời kỳ hội nhập.

Thế hệ trẻ cần kế thừa, phát huy truyền thống lịch sử, văn hóa, tinh thần đại đoàn kết dân tộc. Bảo vệ Tổ quốc không chỉ trong chiến tranh mà ngay từ thời bình, phải chuẩn bị từ xa, làm chủ khoa học - công nghệ, góp phần đưa đất nước phát triển, sánh vai với cường quốc năm châu. Hơn hết, thế hệ trẻ phải thấm nhuần đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, trân trọng những hy sinh của cha ông trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, tiếp nối truyền thống kiên cường dựng nước và giữ nước. Đó cũng là thông điệp tôi muốn nhắn gửi đến thế hệ trẻ hôm nay: Hãy trân trọng hòa bình, giữ gìn môi trường và phát triển đất nước một cách bền vững.

Sau 50 năm kể từ ngày đất nước thống nhất, Thượng tướng cảm nhận thế nào về sự phát triển của TPHCM hiện nay?

lTôi đánh giá cao sự phát triển vượt bậc của TPHCM sau 50 năm giải phóng. Thành phố đã chuyển mình từ “Thành đồng Tổ quốc” thành “Đầu tàu kinh tế” của cả nước, là trung tâm kinh tế, khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo của cả nước. Từ một đô thị trải qua chiến tranh, TPHCM đã không ngừng đổi mới, xây dựng hạ tầng hiện đại, thu hút đầu tư, phát triển công nghiệp, dịch vụ, công nghệ cao và giữ vững vai trò là trung tâm giao thương quốc tế. Bên cạnh những thành tựu kinh tế, thành phố còn chú trọng đến phát triển văn hóa, giáo dục, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân.

Tôi mong muốn TPHCM tiếp tục phát huy tinh thần sáng tạo, đoàn kết, tận dụng tốt cơ hội của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0; giải quyết các thách thức như ùn tắc giao thông, ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, đảm bảo an ninh trật tự và an sinh xã hội để phát triển bền vững, xứng đáng là đô thị đặc biệt, một trung tâm kinh tế lớn của khu vực Đông Nam Á.

Các tin khác