Việc phục hồi lại chất lượng nước, môi trường và cảnh quan 4 con sông nội đô thuộc khu vực trung tâm TP Hà Nội, gồm: Tô Lịch, Kim Ngưu, Lừ, Sét là 1 trong những nhiệm vụ thuộc Chương trình số 05-CTr/TU của Thành ủy Hà Nội khóa XVII nhiệm kỳ 2020 - 2025, về xử lý vấn đề môi trường được UBND Thành phố phê duyệt từ tháng 12/2021.
Tên sông nhưng chỉ là mương thoát nước
Tại Tọa đàm “Làm “sống lại” 4 con sông nội đô Tô Lịch, Kim Ngưu, Lừ, Sét” do Tạp chí Môi trường và Đô thị Việt Nam phối hợp Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Hà Nội tổ chức ngày 22/8, các nhà quản lý, nhà khoa học và giới nghiên cứu đã trao đổi, làm rõ hơn tính khả thi của các giải pháp được đề cập trong dự thảo Đề án “Phục hồi chất lượng môi trường và phát triển hệ thống 4 sông nội đô Tô Lịch, Kim Ngưu, Lừ, Sét” do Sở Tài nguyên và Môi trường Hà Nội xây dựng năm 2022. Từ đó hoàn thiện trình UBND TP Hà Nội xem xét phê duyệt và triển khai Đề án.
Nêu thực trạng 4 dòng sông nội đô Hà Nội hiện nay, Chủ trì tư vấn lập Đề án, PGS.TS Trần Thị Việt Nga, Trưởng khoa Kỹ thuật Môi trường, Đại học Xây dựng Hà Nội cho biết, vai trò thoát nước của hệ thống 4 sông nội đô luôn rất quan trọng, nhưng thực trạng ô nhiễm đã và đang ở mức báo động. Quá trình phát triển KT-XH, đô thị hóa, đặc biệt là sức ép dân số cơ học trên địa bàn TP Hà Nội ngày càng tăng, dẫn đến các vấn đề và thách thức trong việc quản lý hệ thống sông nội đô.
“Xây dựng Đề án, Sở TN&MT Hà Nội đặt 3 mục tiêu: Ngăn ngừa, giảm thiểu ô nhiễm, đảm bảo chất lượng môi trường nước trên hệ thống sông nội đô đáp ứng các quy chuẩn về môi trường. Đóng góp vào việc đáp ứng các tiêu chí thành phố xanh-thông minh-sáng tạo”, tạo sự an toàn về sức khỏe và môi trường Khôi phục các giá trị lịch sử, văn hóa, xã hội của dòng sông, gắn với hệ sinh thái nhân văn các khu định cư truyền thống và khu phát triển mới dọc sông”, PGS.TS Trần Thị Việt Nga nêu mục tiêu của Đề án.
Thời gian qua, dù TP Hà Nội đã có rất nhiều nỗ lực nâng cao hiệu quả thoát nước và cải thiện chất lượng nước 4 con sông nội đô. Tuy nhiên, quá trình thực thi, tổ chức điều hành các chương trình, dự án còn thiếu tính chủ động, chưa tích hợp trong xây dựng cơ chế, chính sách để huy động hiệu quả hơn từ các nguồn lực xã hội…
GS.TS Trần Đức Hạ, Ủy viên BTV Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật Hà Nội, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu cấp thoát nước Việt Nam cho rằng, đặc điểm thoát nước của TP Hà Nội là hệ thống thoát nước chung, nên đối tượng xả thải dọc 4 sông không thể thu gom vào hệ thống chung đang chiếm tới 12% tổng lưu lượng nước thải.
“Cần phải tạo dòng chảy cho các dòng sông này bằng cách bổ sung nước sạch, đưa chúng về đúng chức năng thoát nước mưa. Bổ cập nguồn nước sạch từ sông Hồng để đảm bảo dòng chảy tự nhiên, làm cân bằng hệ sinh thái đồng thời cấp nước nông nghiệp vào mùa khô cho khu vực phía Đông Hà Nội”, GS.TS Trần Đức Hạ nêu định hướng.
Xét về góc độ chuyên môn, GS.TS Dương Thanh Lượng, nguyên Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Thủy lợi cho rằng, để sống lại các dòng sông này phải có dòng chảy tốt thiểu đạt 0,3m3/s khi đó mới cho phép xả thải trực tiếp vào sông. Chỉ khi có dòng chảy, các sông sẽ có cơ chế tự làm sạch tự nhiên, không làm ô nhiễm cho lưu vực sông.
“Làm đập sông Hồng dâng nước cho Hồ Tây hay 4 sông nội đô không đảm bảo về mực nước cũng như cao độ. Lắp đặt trạm bơm bổ trợ nguồn nước cho các sông đạt tốc độ tối thiểu nghe có vẻ sẽ tốn kém, nhưng nếu xét về mặt xã hội và tổng hòa nền kinh tế quốc dân sẽ không lãng phí. Vì bơm nước cho sông chảy sẽ đảm bảo đa mục tiêu làm sạch sông, cung cấp nguồn nước tưới, nguồn nước mặt cũng như bổ sung cho hệ thống nước ngầm”, GS.TS Dương Thanh Lượng đề xuất.
Thời điểm thực hiện và nguồn lực đầu tư
Thống nhất với các mục tiêu của Đề án, song PGS.TS Nguyễn Hồng Tiến, Chủ nhiệm Chương trình nghiên cứu KH&CN phục vụ quy hoạch, quản lý xây dựng và phát triển đô thị, bảo vệ môi trường Hà Nội cho rằng, việc khái toán cho Đề án cần được xem xét, rà soát tính toán lại một cách chi tiết, cụ thể với những con số gần đúng và phù hợp với thực tế, tránh chung chung về mặt số liệu.
“Khái toán trong Đề án đưa ra những con số không đúng với thực tế. Ví dụ như hạng mục nạo vét bùn hồ Trúc Bạch chỉ có 0,03 tỷ đồng; nạo vét bùn hồ Quảng Bá hết 0,04 tỷ đồng. Mức chi cho các hạng mục này chỉ tốn khoảng mấy chục triệu đồng là không chính xác. Cần rà soát lại danh mục dự án cũng như xem xét khả năng của nguồn đầu tư đảm bảo tính đồng bộ. Các con số khái toán cần phù hợp với thực tế, vì đây sẽ là phần phụ lục đính kèm khi xem xét phê duyệt Đề án”, PGS.TS Nguyễn Hồng Tiến đề cập.
Cho rằng cần lựa chọn thời điểm để triển khai Đề án, TS. Đào Ngọc Nghiêm, Phó Chủ tịch Hội Quy hoạch Phát triển Đô thị Việt Nam, nguyên Giám đốc Sở Quy hoạch Kiến trúc Hà Nội lưu ý, trong bối cảnh quy hoạch Thủ đô Hà Nội giai đoạn 2021 - 2030 dự kiến phải đến năm 2024 mới xong. Cùng với đó là điều chỉnh Quy hoạch chung Thủ đô đến năm 2045 và tầm nhìn 2065 sẽ rất lâu mới hoàn thiện.
Đặc biệt, Luật Thủ đô có bàn đến vấn đề sông hồ của Hà Nội, nhưng chỉ chú trọng vấn đề phát triển 2 bờ sông Hồng, do đó nếu không tiếp cận và đưa Đề án khôi phục, cải tạo những dòng sông nội đô vào trong Luật, quá trình triển khai sau này sẽ rất khó được phê duyệt vì trong Luật đã không có chính sách nào ưu tiên cho vấn đề này.
“Trong bối cảnh Hà Nội có 2 Quy hoạch đang được thực hiện và Luật Thủ đô đang chờ phê duyệt, Đề án còn thiếu nhiều yếu tố đầu vào, nguồn đầu tư…nên nếu trong Luật Thủ đô có chủ trương vấn đề này việc cấp phép đầu tư cho Đề án mới thành công, nếu không sẽ trở thành Đề án nghiên cứu khó khả thi. Do đó, Sở TN&MT cần nghiên cứu kỹ về thời điểm thực hiện và thời hạn chuyển giao, trong đó ưu tiên đến mục tiêu giảm thiểu ô nhiễm và ổn định dòng chảy cho 4 dòng sông nội đô”, TS. Đào Ngọc Nghiêm khuyến nghị.