Nhật Bản-Thập niên mất mát (P2): Cần chống đúng chỗ

Sau hàng trăm nghiên cứu, các nhà phân tích kết luận rằng chính những chính sách sai lầm của Nhật Bản đã làm trầm trọng hơn các cuộc suy thoái và tác động của thập niên mất mát.

Sau hàng trăm nghiên cứu, các nhà phân tích kết luận rằng chính những chính sách sai lầm của Nhật Bản đã làm trầm trọng hơn các cuộc suy thoái và tác động của thập niên mất mát.

Cho vay chọn lọc

Một trong những sai lầm cơ bản được cho bắt nguồn từ cơ chế quản lý hệ thống tài chính lỏng lẻo, tạo ra một môi trường an toàn giả tạo. Trước khi rơi vào thập niên mất mát, Nhật Bản áp dụng cơ chế Basel I để quản lý hệ thống tài chính trong nước.

Các quy định về vốn của cơ chế này chủ yếu tập trung về lượng chứ không chú ý đến chất (độ rủi ro) của các khoản cho vay. Nói cách khác, một khoản vay cho một doanh nghiệp khỏe mạnh cũng đòi hỏi bỏ ra lượng vốn dự phòng tương đương với khoản vay đối với doanh nghiệp nhiều rủi ro.

Điều này tạo ra một môi trường an toàn giả tạo làm che mắt cả nhà đầu tư và nhà cho vay. Các ngân hàng đáp ứng được những yêu cầu của luật định, dù không bao giờ phân biệt rạch ròi loại nợ họ nắm giữ.

Không có chuẩn mực để đo những giá trị minh bạch và rủi ro, Basel I tỏ ra kém hiệu quả trong việc ngăn chặn những nguy cơ hệ thống.

Đầu năm 1992, nhận ra nền kinh tế sẽ không sớm tăng trưởng trở lại, Chính phủ Nhật Bản nhanh chóng thông qua gói kích thích kinh tế chống suy thoái lần đầu tiên. Chính phủ gia tăng chi tiêu công và cho vay trong vài năm tiếp theo để chống lưng cho những công ty tài chính đang thất bại.

Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BoJ) cố chữa sự đau đớn của nền kinh tế bằng cách cho vay một lượng lớn với doanh nghiệp. Nhưng những nỗ lực tái cấp vốn ra thị trường lại phớt lờ những vấn đề về quản lý trong các công ty đang chết dần.

Đó là một sai lầm tốn kém. Vận động từ các nhóm lợi ích ở trong nhiều lĩnh vực của nền kinh tế đã dẫn đến việc cho vay vô tội vạ và tiền của chính phủ đổ vào những doanh nghiệp thây ma.

Chính sách thuế dài hạn

Ở những giai đoạn khác nhau, Nhật Bản cố vượt qua tình trạng hỗn loạn kinh tế bằng cả 2 cách tăng và giảm thuế. Có 2 đợt giảm thuế chính trong thập niên mất mát: chương trình giảm 5.800 tỷ yen (69 tỷ USD) thuế thu nhập năm 1994, kéo dài trong 1 năm; chương trình giảm 4.000 tỷ yen (46 tỷ USD) thuế thu nhập năm 1998, kéo dài 2 năm. Vấn đề là các chương trình giảm thuế này không kéo dài, vì vậy không gia tăng tổng tiêu thụ dài hạn.

Giảm phát năm 1995 khiến thu nhập ngân sách giảm. Trong một nỗ lực kìm chế nợ công gia tăng, thuế tiêu thụ được nâng từ 3% lên 5% vào năm 1997, khiến nền kinh tế đình trệ trở lại.

Từ trường hợp Nhật Bản, giới chuyên môn phát hiện rằng giảm thuế tạm thời kết hợp tăng chi tiêu không kích thích tăng trưởng kinh tế. Việc tăng thu ngân sách thông qua tăng thuế cũng không đạt hiệu quả. Chỉ có giảm thuế dài hạn mới cho phép các công ty giữ được nhiều lợi nhuận hơn, từ đó đầu tư nhiều hơn và mở rộng doanh nghiệp, thuê thêm nhân công, trả cổ tức và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Giảm thuế thu nhập cá nhân giúp người ta kiểm soát tốt hơn thu nhập, có tiền trả bớt nợ, gửi tiết kiệm, đầu tư và tăng tiêu dùng. Những chính sách thuế đó mới là cách nhanh nhất để chống lại một cuộc suy thoái.

Cân nhắc đầu tư công

Trong nỗ lực kích thích tăng trưởng, Nhật Bản khởi động một chương trình đầu tư công khổng lồ, trị giá hàng nghìn tỷ yen. Họ xây đường sá, cầu cống, sân bay với mục đích tạo công ăn việc làm và thúc đẩy kinh tế. Nhưng nỗ lực này cũng không mang lại kết quả.

Trong những năm 1990, Nhật Bản thông qua 10 gói kích thích tài chính, trọng tâm là các công trình công cộng, với trị giá hơn 120.000 tỷ yen (1.400 tỷ USD). Khi gói xây dựng này thất bại trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, họ lại thử một gói khác.

Nhưng các gói này đều không thành công, ngược lại chúng khiến xứ Phù Tang ngập trong núi nợ và điều này cản trở hồi phục kinh tế hàng năm trời. Tính luôn các khoản vay ngoài ngân sách, Nhật Bản nợ ước tính hơn 200% GDP vào năm 2001.

Những quyết sách đối phó sai lầm có thể khiến kinh tế tổn hại trầm trọng hơn.

Những quyết sách đối phó sai lầm có thể khiến kinh tế tổn hại trầm trọng hơn.

Các kế hoạch xây dựng thường nhắm đến mục tiêu gia tăng việc làm nhưng ít khi để ý đến giá cả của dự án. Từ năm 1992-1999, Chính phủ Nhật Bản chi hơn 500 tỷ USD vào các dự án công. Nhưng công việc tạo ra bởi các dự án này không phải là việc làm dài hạn, bởi vậy không dẫn đến tăng trưởng kinh tế ổn định.

Trong khi đó, các dự án khiến nợ công tăng nhanh như hỏa tiễn, trong khi tỷ lệ thất nghiệp tính theo năm gia tăng gấp đôi từ 2,3% lên 5%, và nền kinh tế vẫn đình trệ. Chính phủ thất bại trong việc xác định dự án nào nên theo đuổi, dự án nào không hiệu quả, phớt lờ những dấu hiệu cầu mà lĩnh vực tư làm tốt hơn trong việc nhận diện và phản ứng.

Sự nới lỏng tiền tệ của Chính phủ Nhật Bản và cơ chế luật yếu, cộng với hành vi mạo hiểm và cảm giác an toàn giả tạo gây ra trong lĩnh vực tài chính, đã dẫn đến sự biến dạng trong đầu tư tư nhân thay vì giúp phục hồi kinh tế. Suy thoái là cái giá phải trả của những cơn sốt tạo ra bởi những chính sách sai lệch.

Trong khi các nhà chính trị muốn loại bỏ những hiệu ứng tiêu cực như sản xuất đình đốn, thất nghiệp, giá nhà đất rớt... phá sản và điều chỉnh là những bước đi cần thiết trong việc tái tổ chức tiêu dùng và cấu trúc sản xuất. Bất kỳ nỗ lực nào nhằm cải thiện tín dụng một cách nhân tạo thông qua việc hạ lãi suất hay các gói kích thích tài chính sẽ càng góp thêm vào sự méo mó của nền kinh tế và khiến việc tự điều chỉnh của thị trường mất thời gian hơn và kém hiệu quả hơn.

Chi hàng trăm tỷ yen vào hạ tầng, băng thông internet… có thể mang lại lợi ích trước mắt cho một số thành phần kinh tế, nhưng không thể cứu được nền kinh tế, như đã minh chứng qua thập niên mất mát của Nhật Bản.

Các tin khác