Lợi nhuận ấn tượng
Điển hình là kết quả tổng kết 1 năm sản xuất kinh doanh tại Tổng Công ty Thép Việt Nam (VNSteel). Năm 2020, đơn vị đã hoàn thành vượt mức kế hoạch đề ra, thậm chí một số chỉ tiêu chính có tăng trưởng nhẹ so với cùng kỳ. Cụ thể năm 2020, VNSteel đạt doanh thu thuần 78.169 tỷ đồng; trong đó, công ty mẹ đạt 2.488 tỷ đồng (bằng 163,8% kế hoạch năm 2020). Lợi nhuận trước thuế đạt 891 tỷ đồng. Tổng doanh thu hợp nhất đạt 30.000 tỷ đồng, bằng 100% kế hoạch), lợi nhuận hợp nhất trước thuế đạt 260 tỷ đồng. Mục tiêu trong năm 2021, VNSteel sản xuất phôi thép hơn 2,5 triệu tấn, tăng khoảng 6,5% so với năm 2020.
Tương tự, ở mảng thép xây dựng, doanh nghiệp dẫn đầu là Tập đoàn Hòa Phát, nâng thị phần từ 26,2% năm 2019 lên 32,5% năm 2020. Với mảng ống thép, hai doanh nghiệp lớn nhất là Hòa Phát và Hoa Sen lần lượt nâng thị phần từ 31,5% lên 31,7% và từ 15,3% lên 16,8%.
Ở thị trường tôn mạ, Hoa Sen tiếp tục khẳng định ưu thế của mình khi tăng thị phần từ 29,5% lên 33,4%. Dù chưa công bố con số cả năm, nhưng chỉ nhìn vào 3 quý đầu năm 2020, lợi nhuận của Hòa Phát đã tăng 56% so với cùng kỳ (đạt 8.845 tỷ đồng), Hoa Sen Group cũng báo lãi sau thuế gấp 3 lần cùng kỳ (đạt 1.151 tỷ đồng), vượt xa kế hoạch đề ra của cả năm.
Trong khi đó, số liệu của Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA) cũng cho thấy sự trùng khớp với cộng đồng doanh nghiệp. Trong năm 2020, doanh nghiệp ngành thép bán ra tổng cộng 23,45 triệu tấn thép các loại, tăng 1,4% so với năm 2019. Mặt hàng thép xây dựng giảm 1,2% nhưng vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất (44,6%) trong tổng cơ cấu tiêu thụ theo ngành hàng.
Đáng chú ý, năm nay Việt Nam xuất khẩu thép đạt trên 8 triệu tấn với trị giá ước đạt hơn 4 tỷ USD. Trong đó, sản lượng thép của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Trung Quốc đã tăng trên 20 lần so với năm 2019. Theo đánh giá của VSA, bên cạnh tín hiệu khả quan từ thị trường xuất khẩu, tiêu thụ trong nước cũng phục hồi mạnh mẽ từ quý 2-2020 khi hoạt động xây dựng trở lại bình thường nhờ dịch bệnh tại Việt Nam cơ bản được kiểm soát tốt và nhiều dự án đầu tư công bắt đầu triển khai đã giúp ngành thép đảo ngược tình thế.
Cơ hội từ nhiều phía
Theo đánh giá của các chuyên gia, bên cạnh tín hiệu tích cực từ các doanh nghiệp, cùng với một loạt chính sách kích cầu hạ tầng và tín hiệu xuất khẩu khả quan sẽ là điểm sáng của ngành thép Việt Nam trong năm 2021. Ước tính nhu cầu thép sẽ tăng khoảng 3-5% so với năm 2020.
Đặc biệt, các dự án trọng điểm như cao tốc Bắc - Nam phía Đông, cao tốc Trung Lương - Mỹ Thuận - Cần Thơ, sân bay quốc tế Long Thành sẽ có nhu cầu tiêu thụ thép cao. Bên cạnh đó, Việt Nam còn có cơ hội lớn trong thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhờ khả năng kiểm soát tốt dịch bệnh, chi phí nhân công rẻ. Do vậy, khi các doanh nghiệp nước ngoài vào Việt Nam thì nhu cầu đầu tư nhà xưởng, khu công nghiệp sẽ tăng lên, kéo theo nhu cầu về thép xây dựng tăng theo.
Các cơ hội còn đến từ việc thực thi các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới như: Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - liên minh châu Âu (EVFTA) cũng được kỳ vọng thúc đẩy ngành thép sản xuất, xuất khẩu ra các thị trường mới.
Đối với CPTPP, việc gỡ bỏ hàng loạt thuế quan sẽ giúp doanh nghiệp ngành thép Việt Nam mở rộng thị trường xuất khẩu đồng thời nhập khẩu nguyên liệu từ các quốc gia có lợi thế như Australia. Hiện nay, các nước thành viên CPTPP là nguồn cung cấp nguyên vật liệu chủ yếu để sản xuất thép cho các doanh nghiệp Việt Nam. Đơn cử, Australia là nước cung cấp than đá và quặng chủ yếu cho nước ta, lần lượt chiếm 25,7% và 22,9% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam.
Ngoài ra, hơn 50% lượng sắt thép phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất phôi cũng từ các nước thuộc CPTPP. Một số thành viên như Canada, Malaysia cũng có nhu cầu lớn nhập khẩu nhiều thép thành phẩm. Lâu nay, ASEAN và Mỹ là hai thị trường dẫn đầu về nhập khẩu thép của Việt Nam. Tuy nhiên, trong bối cảnh chủ nghĩa bảo hộ tăng cao, theo các chuyên gia, việc chuyển hướng xuất khẩu, mở rộng sang các thị trường khác là cần thiết, đặc biệt là nâng cao chất lượng sản phẩm để cạnh tranh với thị trường truyền thống của các đối thủ.