Hiện có khoảng 45 quốc gia (chưa đến ¼ các nước trên thế giới) áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) đối với nước giải khát có đường. Nghiên cứu ở nhiều quốc gia đã áp dụng cho thấy rằng chính sách thuế này là không đạt hiệu quả trong việc làm giảm tỷ lệ thừa cân, béo phì hay điều chỉnh hành vi người tiêu dùng do hiệu ứng hàng hóa thay thế, trong khi lại mang đến các tác động tiêu cực tới nền kinh tế và việc làm.
Áp thuế TTĐB nhưng tỷ lệ thừa cân béo phì không giảm
Đầu năm 2023, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã cập nhật danh sách các can thiệp hiệu quả nhất về mặt chi phí để giải quyết các bệnh không lây nhiễm (Best Buys) tuy nhiên biện pháp áp thuế lên đồ uống có đường vẫn không nằm trong danh sách các biện pháp can thiệp hiệu quả nhất này.
Chi-lê, Mexico, Ấn Độ, Bỉ, Phần Lan, Latvia và Brunei là những ví dụ điển hình. Chi-lê đã áp thuế TTĐB đối với nước giải khát có đường từ năm 2014 nhưng đến năm 2016-2017 tỷ lệ béo phì tại nước này vẫn gia tăng liên tục từ 19,2% lên 30,3% đối với nam giới và từ 30,7% lên 38,4% đối với nữ giới.
Tương tự, tại Mexico sau 2 năm áp thuế, lượng tiêu thụ đồ uống có đường ở Mexico có xu hướng tăng trở lại ở mức 1,6% so với trước thời điểm áp thuế, cho thấy đây là sản phẩm có độ co giãn của cầu thấp, dẫn tới lượng tiêu thụ ít bị tác động bởi yếu tố tăng giá, đồng thời tỷ lệ béo phì ở cả người lớn và trẻ em nước này vẫn gia tăng liên tục trong giai đoạn 2012-2021, nam giới: 69% đã tăng lên 70%, nữ tăng từ 73% lên 75%, trẻ em tăng nhanh nhất từ 35% lên 43%.
Nguồn: European Journal of Public Health |
Tại Latvia, trước khi đánh thuế, tỷ lệ béo phì ở nam giới ở độ tuổi trưởng thành là 11,5% còn nữ giới là 19% nhưng sau 15 năm áp thuế thì tỉ lệ béo phì ở cả nam giới và nữ giới vẫn tiếp tục tăng lần lượt là 19,6% và 25,7%. Tại Bỉ, Năm 2014, tỷ lệ béo phì ở nam giới nước này là 13,9% còn ở nữ giới là 14,2%, nhưng đến năm 2019, tỷ lệ này ở nam giới là 17,2% và nữ giới là 15,6%.
Tại một số bang của Mỹ như thành phố Berkerley, bang California, việc đánh thuế thậm chí khiến lượng calories mà người dân nạp vào cơ thể tăng lên, thay vì giảm đi. Cụ thể, lượng calories nạp vào từ các mặt hàng nước giải khát bị đánh thuế giảm nhẹ trung bình 6 calories mỗi ngày, từ 45 kcal/ngày xuống 39 kcal/ngày.
Trái lại, lượng calories nạp vào từ các sản phẩm đồ uống không bị đánh thuế lại tăng trung bình 32 calories mỗi ngày, từ 116 kcal/ngày lên đến 145 kcal/ngày. Biện pháp đánh thuế này cuối cùng đã dẫn đến việc tăng trung bình 26 calories nạp vào cơ thể người dân mỗi ngày.
Tại các quốc gia có thu nhập trung bình, theo Báo cáo đánh giá hệ thống năm 2016 liên quan đến tính hiệu quả của việc đánh thuế nước giải khát có đường tại các nước này không tìm thấy bằng chứng nào cho thấy việc đánh thuế nước giải khát có đường làm giảm tình trạng thừa cân của người dân một cách bền vững.
Bãi bỏ thuế TTĐB với nước giải khát có đường
Hiện nay, một số nước đã bãi bỏ thuế TTĐB với nước giải khát có đường vì không đem lại sự cải thiện rõ rệt nào về sức khoẻ cộng đồng trong khi lại có tác động tiêu cực lên kinh tế và việc làm địa phương.
Một nghiên cứu do Uỷ ban châu Âu tiến hành chỉ ra rằng việc đánh thuế thức ăn hay đồ uống nhiều chất béo, đường hay muối tại một số quốc gia Liên minh châu Âu dẫn đến sự gia tăng về chi phí quản trị, tình trạng thiếu việc làm tại một số quốc gia, chi phí lương thực tăng cao, đồng thời không đem lại sự cải thiện rõ rệt nào về sức khoẻ cộng đồng.
Đan Mạch là ví dụ điển hình. Đan Mạch đã nước tiên phong áp thuế đồ uống có đường tại châu Âu từ những năm 1930. Sau một thời gian dài áp dụng cũng không nhận thấy tính hiệu quả, chính phủ Đan Mạch đã phải loại bỏ dần theo 2 giai đoạn, với mức giảm 50% kể từ ngày 1-7-2013 và loại bỏ hoàn toàn kể từ ngày 1-1-2014.
Chính phủ Đan Mạch nhận thấy sự bất hợp lý của chính sách vì người dân sẽ mua sản phẩm từ các quốc gia lân cận trong khi ảnh hưởng lớn đến kinh tế địa phương và việc làm. Việc loại bỏ chính sách thuế theo Chính phủ Đan Mạch là nhằm tạo điều kiện cho tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm. Mặc dù đã bãi bỏ chính sách thuế này, tỷ lệ béo phì ở nước này được duy trì ở mức độ phù hợp.
Hiện nay nhiều quốc gia trên thế giới đã bãi bỏ thuế TTĐB đối với các sản phẩm đồ uống có đường do không có tác dụng ngăn ngừa tăng cân béo phì ở người dân |
Một số bang của Mỹ cũng đã bãi bỏ chính sách này sau một thời gian ngắn khi vừa thông qua. Ví dụ chính quyền quận Cook, bang Illinois, đã bãi bỏ sắc thuế này sau chưa đầy 1 năm kể từ khi thông qua. Bang California thậm chí đã thông qua dự luật ngăn chặn bất cứ thành phố trực thuộc nào thông qua việc áp thuế đối với đồ uống hay thực phẩm trong vòng 12 năm tới kể từ tháng 6-2018.
Có những lý do quan trọng hơn khiến nhiều nước bãi bỏ thuế TTĐB với sản phẩm có đường. Đơn cử như Nhật Bản, nước này không áp dụng chính sách thuế đối với nước giải khát có đường nhưng vẫn kiểm soát tốt tình trạng thừa cân béo phì.
Tại Nhật Bản mặc dù có tỷ lệ tiêu thụ nước giải khát cao hơn nhiều so với Việt Nam (116kg/người/năm) nhưng tỷ lệ béo phì ở quốc gia này chỉ 3,5% do được thúc đẩy bởi chế độ ăn lành mạnh và nỗ lực giáo dục cộng đồng.
Nhật Bản đã xây dựng 2 bộ luật Shuku Iku và Metabo, trong đó quy định quá trình xây dựng thực đơn lành mạnh trong các trường học và thực hiện các bài giảng về dinh dưỡng cho học sinh. Bộ luật này cũng yêu cầu các công ty phải có thời gian nghỉ giữa giờ để nhân viên tập thể dục, đồng thời khuyến khích nhân viên tham gia hoạt động thể chất sau giờ làm việc.
Tại Singapore, 11% dân số mắc bệnh béo phì, 30% trong số họ thừa cân, 10% mắc bệnh tiểu đường và tỷ lệ này đang có chiều hướng gia tăng. Tuy nhiên, chính phủ Singapore không lựa chọn áp dụng biện pháp đánh thuế đối với nước giải khát có đường vì không coi đó là một biện pháp hiệu quả để giải quyết các vấn đề sức khỏe cộng đồng. Thay vào đó, một cách tiếp cận toàn diện hơn đã được áp dụng, bao gồm việc tăng cường hoạt động thể chất cũng như các biện pháp giáo dục cộng đồng về chế độ ăn uống lành mạnh và cân bằng.
Đức cũng đang áp dụng các chính sách hướng dẫn về chế độ ăn uống và hoạt động thể chất, trong đó các biện pháp về truyền thông và khuyến khích cải cách được ước tính là giúp phòng chống 218.000 bệnh không lây nhiễm đến năm 2050.