Tuy nhiên, sự góp mặt của những NĐT chiến lược này lại vô tình đẩy TRI đến bờ vực phá sản, thay vì phát triển thành tập đoàn giải khát hàng đầu Việt Nam.
Thời hoàng kim
TRI thành lập năm 1992 với vốn điều lệ 8,5 tỷ đồng, trong đó nhà nước nắm giữ 51%. Đến năm 1999, TRI cổ phần hóa sau khi cổ đông Nhà nước chuyển nhượng 51% vốn ra bên ngoài.
Ngay sau đó TRI có những bước nhảy vọt trong sản xuất kinh doanh, với sữa đậu nành và nước ngọt có ga được UBND TPHCM chọn làm sản phẩm công nghiệp chủ lực của địa phương.
Thương hiệu Tribeco được người tiêu dùng bình chọn là hàng Việt Nam chất lượng cao trong 11 năm liền. Thời điểm đó, TRI đã tạo được dấu ấn riêng khi tham gia tài trợ cuộc đua xe đạp Cúp Truyền hình TPHCM liên tục trong nhiều năm. Đây là chương trình marketing được các chuyên gia kinh tế đánh giá cao vào thời điểm bấy giờ.
Năm 2001, TRI trở thành doanh nghiệp thứ 9 niêm yết CP trên HOSE. Với thế mạnh về thương hiệu và mức chi trả cổ tức trên 2 con số, TRI nhanh chóng trở thành đối tượng săn lùng của các quỹ đầu tư trong và ngoài nước.
Trong đó có những tổ chức trong nước như Citigroup Global Market Ltd (CGML), Citigroup Global Market Financial Product Ltd (CGMFP), VinaCapital, PXP Vietnam Fund, Vietnam Investment Limited, Uni President, Tập đoàn Kido (tên gọi cũ là Tập đoàn Kinh Đô).
Năm 2005, Kinh Đô, một trong những thương hiệu bánh kẹo mạnh của thị trường nội địa, tham vọng mở rộng sang nước giải khát, đã chọn TRI để đầu tư (mua 35% cổ phần).
Ông Trần Lệ Nguyên, Tổng giám đốc Kinh Đô thời điểm đó, cho rằng để thành lập công ty nước giải khát mới sẽ mất rất nhiều thời gian làm thương hiệu, mở kênh phân phối, quảng bá sản phẩm, nên đầu tư vào TRI là lựa chọn tối ưu nhất.
Mục tiêu của Kinh Đô giúp TRI tăng doanh số lên 30%/năm và sau 3 năm tăng 100%. Nói về thương vụ này, ông Nguyễn Xuân Luân, Tổng giám đốc TRI lúc đó, cho rằng đó là quyết định 2 bên cùng có lợi, TRI nếu không hợp tác để đẩy mạnh phát triển sẽ sớm bị đối thủ ngoại tranh mất thị trường.
Thực tế, với sự góp mặt của Kinh Đô, TRI đã có những quyết định đầu tư táo bạo trong 2 năm 2006 và 2007 khi liên tiếp đưa vào vận hành 2 nhà máy mới Tribeco Bình Dương và Tribeco Miền Bắc (Hưng Yên).
Liên tục thua lỗ
Liên tục thua lỗ
Điểm chung trong các văn bản giải trình thua lỗ của TRI là đầu tư tài chính chồng chéo, các khoản trích lập dự phòng, trong khi phải đi vay ngân hàng lượng vốn lớn để kinh doanh. |
Song kết quả hoàn toàn ngược lại, nguyên nhân xuất phát từ những quyết định đầu tư quá tham vọng trước đó. Đầu tiên là quyết định đầu tư 2 nhà máy mới tại Bình Dương và Hưng Yên với tỷ lệ góp vốn 80% của TRI và 20% của Kinh Đô. Cả 2 nhà máy này có vốn đầu tư cao hơn vốn điều lệ nên TRI phải đẩy mạnh huy động vốn vay.
Theo thống kê, nợ phải trả (phần lớn là vay ngắn hạn) của TRI tăng từ 89 tỷ đồng năm 2005 lên 150 tỷ đồng năm 2006 và xấp xỉ 500 tỷ đồng vào năm 2007. Gánh nặng lãi vay chính là nguyên nhân khiến TRI lần đầu nếm mùi thua lỗ trong năm 2008. Thời điểm cuối năm 2008, vốn chủ sở hữu của TRI âm 5 tỷ đồng, đặc biệt tỷ lệ nợ vay trên tổng nguồn vốn lên gần 99%.
Liên tiếp trong 2 năm 2010, 2011, TRI phải bán đi 2 nhà máy này để trả nợ vay. Đến cuối 2011, lỗ lũy kế của TRI lên đến 312 tỷ đồng, vốn chủ sở hữu âm 26 tỷ đồng. Cũng thời điểm này, Kinh Đô quyết định rút lui khỏi TRI.
Trong những thời khắc khó khăn này, ban lãnh đạo của TRI, với sự góp mặt của các đại diện đến từ các NĐT chiến lược, lại mắc nhiều quyết định sai lầm trong điều hành.
Chẳng hạn, thay vì quảng cáo trước sau đó lập kênh phân phối bán hàng, TRI lại xác định gây dựng kênh phân phối rồi mới đẩy mạnh marketing sản phẩm. Điều đáng nói, ở thời điểm này các đối thủ cạnh tranh của TRI đã vươn lên khá mạnh mẽ nhờ các hoạt động marketing rầm rộ.
Thua lỗ lớn trong năm 2008 và khủng hoảng xảy ra khiến TRI không dám mạo hiểm thay đổi chiến lược, trong khi hệ thống phân phối lập nửa chừng. Đặc biệt, sự khác biệt trong cách thức quản lý của các ông chủ đến từ Đài Loan sau khi Kinh Đô rút lui đã khiến TRI không đạt được sự đồng thuận trong các quyết định đầu tư.
Điều này khiến hàng loạt cán bộ giỏi xin nghỉ, hệ thống phân phối không được mở rộng, thị trường ngày càng thu hẹp. Đến tháng 8-2012, TRI tổ chức ĐHCĐ bất thường thông qua tờ trình giải thể doanh nghiệp và hủy niêm yết CP trên TTCK.
Ký ức buồn
Ký ức buồn
Thời điểm đó, nếu HĐQT không chủ động hủy niêm yết TRI vẫn bị hủy niêm yết bắt buộc do vốn chủ sở hữu âm. Với tuyên bố giải thể doanh nghiệp, hơn 27,5 triệu CP TRI cũng chính thức bị hủy niêm yết trên HOSE kể từ ngày 10-4-2012.
Để đảm bảo quyền lợi cho cổ đông, TRI sẽ mua lại cổ phần từ các NĐT với mức giá 2.300 đồng/CP, tính theo giá bình quân 60 ngày giao dịch gần nhất. Sau quyết định giải thể, mọi hoạt động của TRI đã được chuyển sang cho Tribeco Bình Dương (công ty 100% vốn nước ngoài được sở hữu bởi Uni President). Điều này đồng nghĩa thương hiệu Tribeco sau 20 năm gầy dựng chính thức về tay đối tác ngoại.
Trên thị trường nước giải khát, Tribeco là kết thúc buồn đối với thương hiệu hàng đầu Việt Nam. Còn trên TTCK, TRI là ký ức buồn của những mã CK đầu tiên niêm yết trên HOSE. Dù chỉ giao dịch hơn 11 năm, nhưng TRI đã để lại nhiều cảm xúc đối với không ít NĐT, đặc biệt những NĐT đầu tiên tham gia TTCK.
TRI chào sàn ngày 28-12-2001 ở mức giá chốt phiên 29.000 đồng/CP. Đỉnh lịch sử của TRI được xác lập trong phiên giao dịch 23-3-2007 là 61.000 đồng/CP.