Phát huy mô hình kinh tế nội lực

(ĐTTCO) - Để đối phó với lạm phát cao, hàng loạt quốc gia chạy đua tăng lãi suất, bất chấp lãi suất cao có thể đẩy nền kinh tế lún sâu hơn vào suy thoái. 

Phải tính đến việc chuyển hướng vào mô hình kinh tế nội lực với lợi thế gần 100 triệu dân.
Phải tính đến việc chuyển hướng vào mô hình kinh tế nội lực với lợi thế gần 100 triệu dân.
Nền kinh tế còn phụ thuộc từ bên ngoài
Việt Nam là nền kinh tế có độ mở hàng đầu trên thế giới khi tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng năm lên tới trên dưới 200% GDP, và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đóng góp khoảng 1/4 tổng vốn đầu tư toàn xã hội với trên 1/5 GDP.
Hơn thế nữa, khu vực FDI thường xuyên chiếm tới 3/4 tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đi đôi với thặng dư cán cân thương mại, trong khi khu vực kinh tế trong nước chịu thâm hụt thương mại thường xuyên.
Bên cạnh đó, mấy năm gần đây Việt Nam tuy có thặng dư cán cân thương mại hàng hóa, nhưng lại liên tục thâm hụt cán cân thương mại dịch vụ, khiến cán cân vãng lai luôn ở mức âm. Do đó, cán cân thanh toán của Việt Nam chỉ thặng dư nhờ thặng dư cán cân tài chính. 
Có thể thấy mô hình kinh tế định hướng xuất khẩu từ hàng chục năm qua đã và đang khiến nền kinh tế nước ta ngày càng phụ thuộc sâu và nhiều vào nước ngoài, từ nguồn lực tài chính - tiền tệ đến công nghệ, thị trường và cả nguồn lao động chất lượng cao.
Trong khi đó, nguồn nội lực chưa được phát huy và khai thác tốt, cùng với thị trường trong nước chưa được coi trọng và phát triển tương xứng.
Có nghịch lý, là khu vực kinh tế FDI cũng như hoạt động xuất khẩu được hưởng nhiều chính sách ưu đãi và thủ tục đơn giản, như chính sách thuế, chính sách đất đai, chính sách lao động tiền lương, chính sách quản lý ngoại hối, chính sách xúc tiến thương mại…
Trong khi ngược lại khu vực kinh tế và thị trường trong nước luôn phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, từ tiếp cận các nguồn lực như đất đai, tiền tệ tín dụng, lao động... đến áp lực từ chính sách quản lý thuế, quản lý giá, quản lý lao động tiền lương, quản lý thị trường... Thậm chí cả một “rừng” thủ tục rườm rà phức tạp lẫn hệ thống thanh kiểm tra trùng điệp. 
Rõ ràng, mặc dù khu vực kinh tế FDI và dòng hàng hóa hướng ra thị trường quốc tế được hưởng nhiều ưu đãi, được tạo điều kiện thuận lợi tối đa, song vẫn chủ yếu dựa trên ưu thế giá rẻ, từ tiếp cận đất đai, mặt bằng sản xuất kinh doanh, lao động, tài nguyên, thuế phí ưu đãi, chi phí bảo vệ môi trường, chi phí đầu tư...
Và phần lớn sản phẩm tạo ra vẫn dừng lại ở gia công lắp ráp với giá trị gia tăng thấp. Tuy những năm gần đây, Việt Nam đã có mặt một số tập đoàn xuyên quốc gia, nhưng những khâu sản xuất chủ yếu vẫn chưa phải là công nghệ cao, chưa tạo ra được nhiều giá trị gia tăng. 
Chính vì vậy, tuy Việt Nam liên tục có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, song vẫn chưa phát huy hết tiềm năng và chất lượng tăng trưởng, cũng như phân bổ kết quả tăng trưởng còn nhiều hạn chế. Thêm vào đó, sự phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn đầu tư và thị trường nước ngoài, nên sự chủ động trong hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô của nước ta bị hạn chế đáng kể. 

Chuyển hướng vào mô hình kinh tế nội lực
Chính sách tăng lãi suất liên tục và ở mức cao của Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) khiến USD tăng vọt so với hầu hết đồng tiền khác trên thế giới, gây tác động đến dịch chuyển dòng vốn toàn cầu, đặc biệt đẩy nhiều nền kinh tế vào cuộc đua tăng lãi suất hay/và nỗ lực duy trì tỷ giá hối đoái ổn định, đánh mất sự chủ động trong hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô. 
Trong bối cảnh kinh tế thế giới dự báo có thể lâm vào suy thoái kinh tế, thậm chí đình lạm ngay từ năm 2023, sẽ gây ra hàng loạt khó khăn và thách thức cho mô hình kinh tế định hướng xuất khẩu. Nhưng đây lại là cơ hội, thậm chí là vận hội cho nền kinh tế Việt Nam, nếu mạnh dạn chuyển định hướng chiến lược sang phát huy nội lực và phát triển thị trường trong nước.
Do vậy, Việt Nam chỉ thu hút các nhà đầu tư nước ngoài có công nghệ cao trong nước chưa thể tự chủ được, và dự án đầu tư gắn với những “mắt xích” tạo ra giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị toàn cầu. Hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu của Việt Nam cần dựa trên lợi thế cạnh tranh tuyệt đối và tương đối về hàm lượng công nghệ, chất lượng và giá trị gia tăng cao nhất. 
Có một lợi thế là hiện nay chỉ riêng khu vực kinh tế ngoài nhà nước vẫn chiếm gần 60% tổng vốn đầu tư toàn xã hội và đóng góp trên 40% GDP. Cùng với đó, thị trường trong nước cũng ngày càng phát triển đáp ứng nhu cầu hàng hóa và dịch vụ cho 100 triệu người tiêu dùng, với tiêu dùng cuối cùng chiếm khoảng 70% GDP và tổng mức bán lẻ hàng hóa - doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng tới 2 con số mỗi năm.
Do vậy khu vực kinh tế trong nước cần được hưởng môi trường đầu tư và các ưu đãi đầu tư tương tự hoặc ít nhất gần bằng FDI. 
Ưu tiên phát triển thị trường trong nước cần trở thành chiến lược cho giai đoạn phát triển mới, cả ưu tiên phát triển nguồn cung hàng hóa dịch vụ có chất lượng cao, lẫn phát triển cầu có khả năng thanh toán trên nền tảng ổn định kinh tế vĩ mô.
Theo đó, chính sách lãi suất ổn định ở mức hợp lý nhằm hỗ trợ và tạo điều kiện cho khu vực kinh tế và thị trường trong nước phát triển là chủ đạo. Kế đến là chính sách tỷ giá hối đoái nhằm hỗ trợ xuất khẩu, cải thiện cán cân thương mại, cán cân vãng lai và cán cân thanh toán, bên cạnh kết hợp chính sách quản lý ngoại hối và chính sách thu hút vốn nước ngoài.
Với mô hình kinh tế phát huy nội lực và hướng vào phát triển thị trường trong nước, Việt Nam không chỉ giảm sự phụ thuộc vào bên ngoài, tăng tính độc lập tự chủ trong tăng trưởng kinh tế, cũng như giành lại thế chủ động trong hoạch định và điều hành chính sách kinh tế vĩ mô, còn tạo ra cơ hội tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao hơn, bền vững hơn và phân phối kết quả tăng trưởng công bằng hơn. 
 Ưu tiên phát triển thị trường trong nước phải là chiến lược cho giai đoạn phát triển mới, cả trong phát triển nguồn cung hàng hóa dịch vụ có chất lượng cao, lẫn phát triển cầu có khả năng thanh toán trên nền tảng ổn định kinhh tế vĩ mô và kiểm soát tốt lạm phát.

Các tin khác