Tiếp theo bài viết trước “Thận trọng kiểm soát lạm phát”, ĐTTC đã có cuộc trao đổi với PGS.TS NGÔ TRÍ LONG (ảnh).
PHÓNG VIÊN: - Thưa ông, nếu nhìn dưới góc độ điều hành vĩ mô, hai “cú hích” sắp tới là tăng lương tối thiểu vùng từ 1-1-2026 và dồn giải ngân đầu tư công vào những tháng cuối năm, chắc chắn tạo thêm sức ép lên giá cả. Vậy theo ông mức độ thế nào và có rơi vào tình trạng “lương chưa kịp tăng đã mất giá”?
PGS.TS NGÔ TRÍ LONG: - Thứ nhất, đối với tăng lương tối thiểu có tạo sức ép, nhưng không phải “thủ phạm chính” của lạm phát.
Theo Nghị định 293 của Chính phủ, lương tối thiểu vùng tăng bình quân khoảng 7,2% từ ngày 1-1-2026 (tăng 250.000–350.000 đồng/tháng), đưa vùng 1 lên khoảng 5,31 triệu đồng, vùng 4 khoảng 3,7 triệu đồng/tháng. Từ đây áp lực lên giá đến từ ba kênh chính:
(i) Chi phí lao động tăng: với nhiều ngành, chi phí nhân công chiếm 20-30% giá thành. Lương tối thiểu tăng ~7%, có thể “đẩy” chi phí lên khoảng 1,5-2%. Đây là sức ép đáng kể nhưng chưa đủ gây “sốc” lạm phát diện rộng, nhất là khi nhiều doanh nghiệp lớn, FDI vốn đã trả cao hơn mức tối thiểu.
(ii) Tâm lý “giá chạy trước lương”: ngay khi có thông tin tăng lương, một bộ phận chủ nhà trọ, dịch vụ ăn uống, gửi trẻ, dịch vụ cá nhân… có xu hướng tăng giá trước, dù lương chưa điều chỉnh. Cảm giác “lương chưa tăng nhưng giá đã tăng” chủ yếu xuất phát từ kỳ vọng và phản ứng sớm này.
(iii) Tác động vòng hai: khi lương thực tế tăng, cầu tiêu dùng của nhóm thu nhập thấp đối với lương thực, thực phẩm, dịch vụ thiết yếu sẽ nhích lên, nếu gặp đúng lúc nguồn cung bị thu hẹp do thiên tai, dịch bệnh… thì mới dễ “châm ngòi” cho mặt bằng giá mới. Kinh nghiệm các lần tăng lương cơ sở, lương tối thiểu những năm qua cho thấy, nếu chính sách giá, thanh tra thị trường và điều hành tiền tệ đi kèm đồng bộ, lạm phát vẫn có thể giữ quanh 3-4%, không “vỡ trần” chỉ vì tăng lương.
Thứ hai, đối với giải ngân đầu tư công. Dồn giải ngân đầu tư công vào những tháng cuối năm sẽ gây “nóng cục bộ” nhưng lợi ích dài hạn. Năm 2025, tổng quy mô kế hoạch đầu tư công khoảng trên 1 triệu tỷ đồng, nhưng đến hết cuối tháng 10 mới giải ngân được trên 50% kế hoạch. Phần còn lại buộc phải dồn vào những tháng cuối năm.
Về ngắn hạn, khi nhiều dự án hạ tầng, cao tốc, bệnh viện, trường học cùng “chạy nước rút”, nhu cầu sắt thép, xi măng, cát đá, vận tải, nhân công… tăng lên, dễ tạo mặt bằng giá cao hơn trong một số nhóm vật liệu và dịch vụ xây dựng. Nếu đấu thầu, lựa chọn nhà thầu, chuẩn bị nguồn cung không tốt, có thể xuất hiện “sốt giá cục bộ”, đội chi phí.
Về trung và dài hạn, đầu tư công lại giúp mở rộng năng lực cung của nền kinh tế: hạ tầng giao thông, logistics, năng lượng tốt hơn sẽ giảm chi phí vận tải, lưu thông, nâng năng suất khu vực sản xuất - dịch vụ. Nhiều nghiên cứu cho thấy, nếu giải ngân hiệu quả, đầu tư công có thể đóng góp thêm 1,5-2 điểm phần trăm cho tăng trưởng GDP mà không đẩy lạm phát lên quá mạnh, đặc biệt khi chính sách tiền tệ được điều hành thận trọng.
- Vậy ông nhận định thế nào về diễn biến chỉ số lạm phát trong những tháng cuối năm?
- Lạm phát hiện vẫn trong tầm kiểm soát, nhưng “vùng an toàn” không còn nhiều và áp lực dồn vào những tháng cuối năm là rất rõ, nên tuyệt đối không được chủ quan. 10 tháng năm 2025, CPI bình quân tăng khoảng 3,27% so với cùng kỳ; riêng tháng 10 tăng 0,2% so với tháng 9 và 3,25% so với cùng kỳ. Lạm phát cơ bản khoảng 3,2%, thấp hơn một chút so với CPI, cho thấy chính sách tiền tệ không phải là nguyên nhân chính đẩy giá lên; sức ép chủ yếu đến từ cung - cầu và điều chỉnh giá dịch vụ công (y tế, giáo dục, nhà ở, vật liệu xây dựng…).
Trong khi đó, Quốc hội và Chính phủ đặt mục tiêu kiểm soát lạm phát quanh mức 4,5%, tức vẫn hỗ trợ được mục tiêu tăng trưởng rất cao của năm 2025. Nhìn vào con số 3,27% sau 10 tháng, có thể nói là còn dư địa, nhưng nếu “dồn” tăng giá vào những tháng cuối năm thì rất dễ lệch khỏi quỹ đạo.
Về diễn biến những tháng còn lại của năm, theo tôi có mấy điểm cần hết sức lưu ý: Một là áp lực từ lương thực - thực phẩm và dịch vụ thiết yếu. Giá thịt lợn và một số mặt hàng thực phẩm đã tăng khá mạnh do dịch bệnh, thiên tai; rau củ, lương thực chịu tác động của mưa bão, ngập lụt kéo dài, khiến chi phí sản xuất, vận chuyển đội lên. Đây là nhóm có quyền số lớn trong rổ CPI, nên chỉ cần biến động vài phần trăm cũng ảnh hưởng mạnh đến mặt bằng giá.
Hai là các đợt điều chỉnh giá dịch vụ công còn “ngấm” dần. Giá điện, y tế, giáo dục, nhà ở - vật liệu xây dựng… sau khi tăng sẽ lan tỏa vào chi phí sản xuất - kinh doanh và chi phí sinh hoạt, tạo hiệu ứng “kéo theo” cho nhiều nhóm hàng hóa khác.
Ba là rủi ro từ tỷ giá, giá xăng dầu và chi phí logistics. Nếu căng thẳng địa chính trị làm giá dầu thế giới bật tăng hoặc tỷ giá chịu sức ép, nguy cơ “nhập khẩu lạm phát” vào những tháng cao điểm tiêu dùng là không thể xem nhẹ.
Bốn là tăng tốc giải ngân đầu tư công, phục hồi tiêu dùng - du lịch. Đây là động lực tích cực cho tăng trưởng, nhưng nếu cung hàng hóa - dịch vụ, đặc biệt là vật liệu xây dựng, vận tải, ăn uống, không theo kịp thì sẽ tạo thêm áp lực lên giá.
Trong kịch bản thuận lợi, nếu mỗi tháng cuối năm CPI tăng quanh 0,2-0,25%, lạm phát cả năm có thể nằm trong vùng 3,3-3,5%, vẫn thấp hơn đáng kể so với trần mục tiêu. Nhưng nếu xuất hiện cú sốc lớn về thực phẩm, năng lượng, cộng với tăng giá dây chuyền, mức tăng thêm bình quân lên 0,4-0,5%, thì lạm phát có thể tiến gần 3,8-4%. Khi đó, tuy vẫn trong ngưỡng kiểm soát, nhưng dư địa điều hành cho năm sau sẽ rất hẹp.
- Theo ông những giải pháp nào để kiểm soát lạm phát theo đúng mục tiêu đề ra?
- Để giữ lạm phát trong mục tiêu mà vẫn hỗ trợ tăng trưởng, theo tôi cần một “gói giải pháp tổng thể”.
Thứ nhất, điều hành tiền tệ chủ động nhưng thận trọng. Kiểm soát tốc độ tăng cung tiền, tín dụng phù hợp với mục tiêu tăng trưởng, ưu tiên vốn cho sản xuất - kinh doanh, ngành thiết yếu, hạ tầng; hạn chế tín dụng vào bất động sản, chứng khoán, các lĩnh vực đầu cơ. Điều hành tỷ giá linh hoạt, tránh cú sốc bất ngờ gây tâm lý găm giữ ngoại tệ và đẩy giá hàng nhập khẩu tăng đồng loạt.
Thứ hai, phối hợp chặt chẽ tài khóa với chính sách giá - lương. Thay vì kích cầu dàn trải, tài khóa nên tập trung giảm chi phí đầu vào (thuế, phí, logistic…) cho doanh nghiệp, hỗ trợ chương trình bình ổn giá, dự trữ hàng hóa thiết yếu. Việc điều chỉnh lương, giá điện, y tế, giáo dục… cần có lộ trình, tránh tăng đồng loạt trong một thời điểm, khiến doanh nghiệp và người dân “trở tay không kịp”.
Thứ ba, bình ổn các mặt hàng thiết yếu, không để sốc cung cục bộ. Siết dự báo, điều tiết cung - cầu, chống đầu cơ, găm hàng với lương thực, thực phẩm, xăng dầu, thuốc chữa bệnh, vận tải… Các địa bàn chịu thiên tai, ngập lụt phải được tăng dự trữ hàng hóa, hỗ trợ lưu thông để “tắc nghẽn cục bộ” không biến thành cú sốc giá trên phạm vi cả nước.
Thứ tư, giảm các “nút thắt” chi phí trong nền kinh tế. Đẩy nhanh tiến độ hạ tầng then chốt, giảm chi phí logistics, cải cách thủ tục hành chính, cắt giảm chi phí không chính thức. Khi chi phí cơ cấu giảm bền vững, áp lực tăng giá hàng hóa -dịch vụ mới có thể “hạ nhiệt” thực chất.
Thứ năm, truyền thông minh bạch để neo giữ kỳ vọng lạm phát. Công khai, giải thích rõ về cung - cầu, về lộ trình điều chỉnh giá các mặt hàng do Nhà nước quản lý để người dân, doanh nghiệp hiểu và đồng hành; tránh tin đồn, tâm lý “tăng giá theo tin đồn”. Kỳ vọng lạm phát được quản trị tốt sẽ là “van an toàn” hỗ trợ điều hành.
- Xin trân trọng cảm ơn ông.
Nếu kiên trì và nhất quán các giải pháp trên, Việt Nam hoàn toàn có thể kết thúc năm 2025 với lạm phát quanh vùng 3,3-3,7%, vừa giữ vững ổn định vĩ mô, bảo vệ thu nhập thực của người dân, vừa tạo nền tảng cho mục tiêu tăng trưởng cao hơn giai đoạn 2026-2030.