Quy chế này nhằm bảo đảm sự phối hợp thống nhất, hiệu quả giữa 3 bộ trong công tác xây dựng và quản lý CDĐL của Việt Nam; phát huy hiệu quả kinh tế - xã hội của bảo hộ CDĐL, nhận thức của người sản xuất và tiêu dùng đối với sản phẩm mang CDĐL…
Đây là thông tin được doanh nghiệp và người dân quan tâm. Bởi việc xây dựng thương hiệu cho sản phẩm nông sản đang là yêu cầu cấp bách hiện nay. Bên cạnh đó, một trong những giải pháp bảo đảm phát triển thị trường bền vững cho nông sản là bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ đối với CDĐL.
Do CDĐL gắn với những lợi thế về điều kiện tự nhiên, điều kiện sản xuất, đặc trưng về chất lượng và danh tiếng của sản phẩm, nên nó là nội dung ưu tiên trong các mối quan hệ hợp tác kinh tế. Do đó, việc đưa ra CDĐL trở thành dấu hiệu quen thuộc đối với người tiêu dùng trên thị trường là rất cần thiết.
Đến nay Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ KH-CN) đã bảo hộ cho 62 CDĐL quốc gia và 6 CDĐL nước ngoài. Hiện đã có 37 tỉnh, thành phố có CDĐL được bảo hộ. Trong số đó, 47% sản phẩm là trái cây; 23% sản phẩm từ cây công nghiệp và lâm nghiệp; 12% thủy sản; 8% gạo; còn lại là các sản phẩm khác. Các sản phẩm không phải là thực phẩm được bảo hộ là nón lá Huế; thuốc lào Tiên Lãng; thuốc lào Vĩnh Bảo; chiếu cói Nga Sơn và hoa mai vàng Yên Tử.
Cũng theo Cục Sở hữu trí tuệ, giá bán của sản phẩm sau khi CDĐL được bảo hộ có xu hướng tăng. Trong đó, cam Cao Phong giá bán tăng gần gấp 2 lần so với trước đó; mật ong bạc hà Mèo Vạc tăng 75-80%; nước mắm Phú Quốc tăng 30-50%; chuối ngự Đại Hoàng tăng 130-150%; bưởi Luận Văn (Thanh Hóa) giá tăng 3,5 lần; cam Vinh tăng hơn 50% sau khi đăng CDĐL được đăng bạ và quản lý…
Từ kết quả bước đầu trên, sự phối hợp giữa 3 bộ sẽ phát huy được ưu thế về năng lực chuyên môn, nguồn lực con người và tài chính của từng bộ, đồng thời tạo ra sự thống nhất, bổ trợ lẫn nhau trong các hoạt động xây dựng, quản lý và phát triển CDĐL.
Và việc phối hợp xây dựng và quản lý CDĐL có ý nghĩa quan trọng đối với ngành nông nghiệp trong việc nâng cao chất lượng, giá trị nông sản Việt. Thực tế hiện nay, ngay đối với thị trường trong nước và thế giới đều đặt vấn đề về truy xuất nguồn gốc, nên việc đảm bảo yêu cầu chất lượng hàng hóa sản phẩm nông nghiệp rất quan trọng.
Được biết, thời gian tới, Bộ NN-PTNT sẽ chuẩn hóa trên 2.000 sản phẩm nông nghiệp liên quan đến sở hữu trí tuệ. Vì thế, nếu làm tốt việc xây dựng và quản lý CDĐL sẽ mang lại giá trị gia tăng cho giá trị hàng hóa, sản phẩm sản xuất trong nước và xuất khẩu; đồng thời góp phần mở rộng thị trường xuất khẩu của Việt Nam thời gian tới.
Sự hợp tác giữa 3 bộ nói trên sẽ tạo ra cơ chế phối hợp thống nhất, hỗ trợ lẫn nhau trong các hoạt động xây dựng, quản lý và phát triển CDĐL.
Sự hợp tác giữa 3 bộ nói trên sẽ tạo ra cơ chế phối hợp thống nhất, hỗ trợ lẫn nhau trong các hoạt động xây dựng, quản lý và phát triển CDĐL.
Đây cũng cơ sở để từng địa phương xây dựng cơ chế phối hợp giữa các sở, ngành về CDĐL trên địa bàn mình. Tuy nhiên, phát huy hiệu quả, ngoài trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước, rất cần sự vào cuộc của doanh nghiệp, đặc biệt là các hiệp hội nghề nghiệp. Bởi lẽ CDĐL liên quan cụ thể đến sản phẩm, hàng hóa của từng doanh nghiệp, cá nhân hay hiệp hội trong quá trình sản xuất, kinh doanh, thương mại.
Do vậy, quyền lợi, trách nhiệm của cá nhân, doanh nghiệp, hiệp hội cần phải được gắn liền trong quá trình xây dựng, bảo hộ CDĐL. Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, quản lý thị trường, xử lý các hành vi xâm phạm về sở hữu trí tuệ đối với CDĐL. Có vậy, CDĐL mới phát huy tối đa hiệu quả, giá trị của sản phẩm, hàng hóa, nhất là mặt hàng nông sản Việt Nam.