Kết quả cho thấy tuy lãi trước thuế của các DNNN năm 2021 tăng 25% so với 1 năm trước, nhưng tổng mức thua lỗ của khối này vượt 50.000 tỷ đồng.
Lãi có tăng nhưng lỗ cũng nhiều
Năm 2021, 673 DNNN có tổng tài sản tăng 1% và lãi trước thuế tăng 25% so với 2020, lần lượt gần 3,65 triệu tỷ đồng và 198.672 tỷ đồng. Song nếu bóc tách chi tiết theo báo cáo của Chính phủ, chỉ có 75 tập đoàn, tổng công ty, công ty mẹ - con do NN giữ 100% vốn, có tổng tài sản hơn 2,73 triệu tỷ đồng có lãi.
Cụ thể, lãi trước thuế năm 2021 đạt gần 156.531 tỷ đồng. Số tập đoàn, tổng công ty có lãi trước thuế trên 5.000 tỷ đồng vẫn chủ yếu ở các đơn vị có quy mô lớn, như Viettel (36.908 tỷ đồng), PVN (51.700 tỷ đồng), EVN (17.991 tỷ đồng), VNPT (6.430 tỷ đồng)…
Đáng chú ý, báo cáo của Chính phủ cũng ghi nhận có 58/673 DNNN năm 2021 thua lỗ với tổng ghi nhận lỗ phát sinh 15.785 tỷ đồng, 138 DN có vốn NN (tương đương 21%) lỗ lũy kế với tổng lỗ là 50.125 tỷ đồng. Riêng số lỗ lũy kế của 16 tập đoàn, tổng công ty, công ty mẹ - con là 14.703 tỷ đồng.
Trong đó Tập đoàn Hóa chất (Vinachem) ghi nhận khoản lỗ lên tới 3.038 tỷ đồng; Tổng Công ty Đường sắt lỗ 1.976 tỷ đồng, hay Tổng Công ty Cà phê lỗ 857 tỷ đồng; công ty mẹ Tập đoàn Hóa chất lỗ 2.612,7 tỷ đồng; công ty mẹ Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam lỗ 1.822 tỷ đồng…
Ngoài ra còn có 8 trong 73 công ty mẹ không bảo toàn được vốn chủ sở hữu, tức có kết quả kinh doanh lỗ lũy kế sau trích lập dự phòng rủi ro, như công ty mẹ Vinachem, công ty mẹ Đường sắt Việt Nam, công ty mẹ Cà phê Việt Nam...
Đối với 197 DN mà NN nắm giữ trên 50% vốn, theo báo cáo của Chính phủ có 23 đơn vị lỗ với tổng lỗ phát sinh 13.757 tỷ đồng. Một số DN có số lỗ phát sinh cao như Tổng Công ty Hàng không Việt Nam (Vietnam Airlines) 12.965 tỷ đồng; Công ty TNHH Truyền hình số vệ tinh Việt Nam (Đài Truyền hình Việt Nam) 342 tỷ đồng; Tổng Công ty Lương thực Miền Nam lỗ phát sinh 298 tỷ đồng...
Ngoài ra, một số DN khi chuyển đổi hoạt động kinh doanh vẫn thua lỗ nên không bảo toàn được vốn chủ sở hữu, như Công ty TNHH Truyền hình số vệ tinh Việt Nam âm vốn sở hữu 3.551 tỷ đồng; CTCP Bóng đá Xuân Thiện Nam Định âm vốn 17 tỷ đồng.
Một số công ty mẹ có tỷ lệ nợ phải thu trên tổng tài sản cao (trên 50%) là Tổng Công ty xây dựng Lũng Lô 1.372 tỷ đồng (64%); Tổng Công ty Thái Sơn 2.198 tỷ đồng (62%); Tổng Công ty Kinh tế kỹ thuật công nghiệp quốc phòng 1.934 tỷ đồng (54%)...
Trong tổng nợ phải thu khó đòi của các công ty mẹ là 31.331 tỷ đồng (tăng 35% so với 2020), thì PVN chiếm gần một nửa, Vinachem (11.151 tỷ đồng), Viettel (940 tỷ đồng), MobiFone (420 tỷ đồng). Có tới 13 công ty mẹ có tỷ lệ tổng nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu lớn hơn 3 lần, như Tổng Công ty Xuất nhập khẩu Vạn Xuân 24,14 lần; Tổng Công ty Thái Sơn 7,08 lần; Tổng Công ty Xây dựng Trường Sơn 6,39 lần. Có 3 công ty mẹ huy động vốn qua phát hành trái phiếu doanh nghiệp, lũy kế giá trị đã phát hành tới hết 2021 là 5.785 tỷ đồng.
Nguyên nhân dẫn đến những thua lỗ trên, theo báo cáo của Chính phủ đó là hiệu quả hoạt động của DNNN chưa xứng với nguồn lực nắm giữ. Một số dự án có vốn đầu tư lớn nhưng không thành công, rủi ro cao như dự án tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí, khai thác khoáng sản; một số dự án có lỗ lũy kế lớn, lỗ liên tiếp trong nhiều năm, phương thức tái cấu trúc chưa hiệu quả.
Bên cạnh đó, trách nhiệm thực thi quyền chủ sở hữu NN chưa thật sự rõ ràng, cơ quan đại diện chủ sở hữu thiếu nguồn lực, chưa hoạt động chuyên nghiệp và chưa tách bạch chức năng chủ sở hữu với quản lý NN.
Nhiều DN có dấu hiệu mất an toàn tài chính
Trước đó, trong báo cáo tổng hợp sơ bộ kết quả kiểm toán lĩnh vực DN đến cuối tháng 9-2022, đối với các báo cáo kiểm toán đã phát hành thuộc kế hoạch kiểm toán năm 2022, và các báo cáo kiểm toán chuyển từ kế hoạch kiểm toán năm 2021 sang 2022, Kiểm toán Nhà nước (KTNN) đã chỉ ra nhiều vấn đề như thua lỗ, có dấu hiệu mất an toàn tài chính, hoạt động khai thác khoáng sản không đạt công suất theo giấy phép tại các DNNN.
Cụ thể, một số đơn vị đầu tư không hiệu quả hoặc hiệu quả thấp, thua lỗ lớn như tại Tổng Công ty Lâm nghiệp Việt Nam (Vinafor) có tới 7/21 công ty thua lỗ; 5/21 khoản đầu tư của Vinafor vào công ty liên kết, đầu tư dài hạn khác bị thua lỗ, mất vốn. Tại Sonadezi có 4/22 công ty thua lỗ, số lỗ lũy kế hơn 111 tỷ đồng. Các công ty thuộc Tổng Công ty xi măng Việt Nam (Vicem) như Vicem Tam Điệp, Vicem Hạ Long, Vicem Sông Thao có dấu hiệu mất an toàn tài chính.
Một số DN còn nhiều diện tích đất chưa đầy đủ hồ sơ pháp lý như Tổng công ty Đông Bắc (144,6ha); Vicem với 161,09ha; Tổng Công ty Bưu Điện Việt Nam (VNPost - 0,2ha). Riêng Tổng Công ty Đông Bắc còn được KTNN nêu tên vì khai thác khoáng sản không đạt công suất theo giấy phép. Các công ty thành viên của Đông Bắc như Công ty 790, Công ty 91, Công ty 45, Công ty 35, Công ty 397, Công ty Khai thác Khoáng sản, Công ty Khe Sim chưa lắp đặt trạm cân tại vị trí đưa khoáng sản nguyên khai ra khỏi khu vực khai thác. Còn CTCP Đầu tư xây dựng và Vật liệu Đồng Nai, công ty con của Sonadezi chưa lập và nộp hồ sơ kê khai đối với tiền cấp quyền khai thác khoáng sản đi kèm.
Theo KTNN, trong năm 2023, cơ quan này sẽ thực hiện kiểm toán 10 tập đoàn, tổng công ty NN, ngân hàng và 5 tổ chức tài chính. Cụ thể, KTNN sẽ thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính, các hoạt động liên quan đến quản lý, sử dụng vốn, tài sản NN năm 2022 của một số ngân hàng, tổng công ty tài chính, bảo hiểm như: Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam; Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam; Ngân hàng Chính sách xã hội; Ngân hàng TMCP Sài Gòn Công Thương, Tập đoàn Bảo Việt để đánh giá thực trạng tài chính và hiệu quả công tác quản lý, điều hành chính sách tiền tệ.
Trong đó có việc đánh giá hoạt động tái cơ cấu thị trường tài chính; xử lý nợ xấu; việc thực hiện cân đối, đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu vốn phục vụ sản xuất kinh doanh, cơ cấu lại thời hạn trả nợ, xem xét miễn giảm lãi vay, giữ nguyên nhóm nợ, giảm phí; vay không có tài sản bảo đảm để trả lương cho người lao động…
KTNN cũng sẽ lựa chọn một số tập đoàn, tổng công ty NN có quy mô lớn như: Tập đoàn Dầu khí, Tập đoàn Dệt may, Tập đoàn công nghiệp Cao su, Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam, để kiểm toán báo cáo tài chính, các hoạt động liên quan đến quản lý, sử dụng vốn, tài sản NN.