Tạo lập khuôn khổ thể chế mới
Từ Nghị quyết 54/2017 đến Nghị quyết 98/2023, Quốc hội đã nhiều lần “may đo riêng” những cơ chế đặc thù cho TPHCM. Tuy nhiên, thực tiễn phát triển nhanh, mở rộng địa giới, gia tăng quy mô dân số và kinh tế trong thời gian qua khiến không gian thể chế đã trở nên chật chội so với một “cơ thể” đô thị ngày càng vạm vỡ, năng động và phức tạp của thành phố.
Hiện nay, TPHCM không còn là một đô thị lớn đơn thuần, mà đang mang dáng dấp của một siêu đô thị vùng, kết nối cả nước và vươn ra khu vực.
Cụ thể, sau khi mở rộng địa giới, thành phố có dân số gần 14 triệu người, GRDP chiếm khoảng 1/4 cả nước và tập trung mật độ doanh nghiệp, dịch vụ, tài chính, logistics, đổi mới sáng tạo lớn nhất cả nước. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh sang dịch vụ chất lượng cao, yêu cầu về hạ tầng, môi trường đầu tư, chất lượng sống đô thị ngày càng cao.
Thế nhưng, cách thức vận hành thể chế vẫn còn mang nặng “dáng dấp của một tỉnh, thành thông thường”. Đó là nhiều thẩm quyền quan trọng vẫn phải xin - chờ - duyệt qua nhiều tầng nấc; nhiều dự án hạ tầng then chốt bị chậm do vướng thủ tục, hướng dẫn. Nhiều sáng kiến thí điểm trong tài chính, đất đai, quy hoạch đô thị, giao thông thông minh, chuyển đổi số… phải chờ cơ quan trung ương.
Công chức phường Bến Thành (TPHCM) tiếp nhận, giải quyết hồ sơ cho người dân. Ảnh: NGÔ BÌNH
Ngoài ra, trong điều kiện cạnh tranh khu vực ngày càng gay gắt, trong khi Bangkok, Singapore, Kuala Lumpur, Jakarta liên tục cải cách mạnh mẽ, nếu TPHCM vẫn chỉ với không gian thể chế hiện nay, nguy cơ bị thu hẹp dư địa cạnh tranh là rất rõ. Và sự chật chội của thể chế không chỉ làm giảm tốc độ tăng trưởng, mà còn khiến cơ hội phát triển vùng và cả nước bị bỏ lỡ.
Vì vậy, sửa đổi, bổ sung Nghị quyết 98 là yêu cầu tất yếu, xuất phát từ nhu cầu nội tại của TPHCM, từ động lực tăng trưởng vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và từ yêu cầu chung của cả nước về một cực tăng trưởng đủ tầm, đủ lực.
Mặt khác, việc nâng cấp Nghị quyết 98 còn tạo lập một khuôn khổ thể chế mới, trong đó TPHCM được thử nghiệm những mô hình phát triển tiên phong, nhưng vẫn bảo đảm kỷ luật, kỷ cương và lợi ích chung của quốc gia.
Khi TPHCM sử dụng hiệu quả cơ chế đặc thù, chứng minh được kết quả thì đây còn là cơ sở thực tiễn để Quốc hội cải cách luật pháp theo hướng trao nhiều không gian tự chủ hơn cho các đô thị lớn, các địa phương có đủ năng lực.
Đặt trong cơ chế liên kết vùng về hạ tầng
Khi đề cập việc sửa đổi, bổ sung, nhiều người thường quan tâm TPHCM “được gì” trong cơ chế đặc thù, chẳng hạn thêm quyền phê duyệt dự án, tăng mức điều tiết ngân sách hay thêm không gian thử nghiệm chính sách. Tuy nhiên, ở góc độ quản trị phát triển, câu hỏi cốt lõi phải là “những quyền đó được sử dụng hiệu quả đến đâu trong thực tế”.
Nghĩa là cơ chế đặc thù chỉ có ý nghĩa khi đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng, nâng cao năng suất, phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tri thức; góp phần tăng thu ngân sách, tăng đóng góp cho Trung ương và cho các hoạt động phúc lợi xã hội, an sinh đô thị.
Cùng với đó, tạo sức lan tỏa mạnh mẽ tới các địa phương lân cận, kéo cả vùng cùng chuyển động; đồng thời hình thành những mô hình quản trị mới, có thể nhân rộng cho cả nước.
Điều quan trọng nhất khi ban hành cơ chế mới không phải là “trao ưu đãi bao nhiêu”, mà là thiết kế được cơ chế để chính sách đi thẳng vào cuộc sống nhanh nhất, ít vướng nhất, ít trung gian nhất, nhưng vẫn bảo đảm kiểm soát tốt quyền lực, chống lợi ích nhóm, tham nhũng, lãng phí.
Để cơ chế đặc thù thực sự trở thành động lực, nghị quyết sửa đổi cần được thiết kế với một số định hướng lớn, vừa bảo đảm tính đột phá, vừa giữ vững kỷ cương. Cụ thể khi trao quyền thì gắn chặt với trách nhiệm giải trình theo kết quả.
Khi TPHCM được phân cấp mạnh hơn về đầu tư, quy hoạch, đất đai, tài chính - ngân sách, thì đi kèm là các chỉ tiêu rõ ràng về tiến độ, chất lượng và tác động của dự án cùng cơ chế giám sát đa chiều, bao gồm cả HĐND, MTTQ, báo chí và nhân dân.
Các cơ chế đặc thù sửa đổi cũng cần tạo điều kiện cho TPHCM rút gọn các khâu trung gian, thậm chí thành phố được ban hành hướng dẫn riêng trong một số lĩnh vực thí điểm, thay vì chờ văn bản chung cho cả nước.
Việc thử nghiệm các mô hình mới này cần được xem như “một cửa lập pháp tại địa phương” cho những nội dung đã được Quốc hội cho phép thí điểm.
TPHCM là hạt nhân của một không gian phát triển vùng, không chỉ là một địa giới hành chính. Khi nâng cấp Nghị quyết 98 cần tính tới cơ chế liên kết vùng về hạ tầng, logistics, công nghiệp, dịch vụ giữa TPHCM và các tỉnh lân cận. Các mô hình chia sẻ nguồn lực, chia sẻ lợi ích, tránh tình trạng “mạnh ai nấy làm”.
Điều này sẽ tạo nền tảng cho một cực tăng trưởng mở, nơi các địa phương cùng tham gia và cùng hưởng lợi. Khi đó, thành công của TPHCM không phải là thành công đơn lẻ, mà là động lực kéo cả vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
TPHCM xin thêm quyền cũng là nhận thêm trách nhiệm về thúc đẩy tăng trưởng, đóng góp ngân sách, lan tỏa phát triển, giữ vững ổn định chính trị - xã hội ở một đô thị đặc biệt.
Điều đó đồng nghĩa với trách nhiệm tiên phong mà thành phố phải gánh vác; chủ động, quyết liệt, sáng tạo trong triển khai thực hiện, chuyển hóa các cơ chế được trao thành kết quả trong tăng trưởng GRDP, về số dự án hạ tầng hoàn thành, cải thiện môi trường kinh doanh, tạo ra việc làm mới cũng như chất lượng dịch vụ công và mức sống người dân.
Quốc hội, Chính phủ và nhân dân cả nước đã nhiều lần đặt niềm tin vào TPHCM, trao cho thành phố cơ hội thí điểm trước những cơ chế chưa từng có tiền lệ. Việc nâng cấp Nghị quyết 98 lần này vì thế không chỉ là câu chuyện của một địa phương, mà là một phép thử quan trọng cho năng lực thiết kế và tổ chức thực hiện chính sách trong giai đoạn phát triển mới.
Với truyền thống năng động, sáng tạo, dám nghĩ dám làm, thành phố đang đứng trước một cơ hội lịch sử để một lần nữa khẳng định vai trò đầu tàu, tiên phong, dám đi trước vì lợi ích chung của đất nước.