Đi đòi nợ phải theo luật
Tại Khoản 9 Điều 8 Nghị định 104/2007/NĐ-CP quy định, chủ nợ không chịu trách nhiệm liên đới đối với những hành vi mà DN kinh doanh dịch vụ đòi nợ vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, trong bản dự thảo, Bộ Tài chính muốn bãi bỏ quy định này với lý do, trên thực tế, một số chủ nợ có yêu cầu các DN kinh doanh dịch vụ đòi nợ thực hiện đòi nợ bằng các hành vi bị cấm như đe dọa, sử dụng vũ lực... gây mất an ninh, trật tự xã hội.
Do đó, trong một số trường hợp, chủ nợ phải chịu trách nhiệm liên đới đối với những hành vi DN kinh doanh dịch vụ đòi nợ vi phạm pháp luật.
Ảnh minh họa.
VCCI cho rằng, lý do bỏ quy định hiện hành dường như chưa hợp lý. Bởi lẽ, xét từ góc độ pháp lý, trong hoạt động cung cấp dịch vụ đòi nợ, DN đòi nợ sẽ đòi các khoản nợ cho khách hàng và được hưởng phí. Tương tự như các hoạt động cung cấp dịch vụ khác, DN đòi nợ sẽ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật đối với hoạt động cung cấp dịch vụ của mình.
Về phía chủ nợ, với tư cách là khách hàng của DN đòi nợ, chủ nợ có quyền được nhận về khoản nợ đòi được và có nghĩa vụ phải trả phí cho DN đòi nợ. Nói cách khác, về mặt pháp lý, trong quan hệ này, chủ nợ không có nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm hay có nghĩa vụ gì đối với dịch vụ mà DN đòi nợ thực hiện.
Trên thực tế, có thể xảy ra tình huống như ban soạn thảo lo ngại, đó là chủ nợ yêu cầu/hướng dẫn/khuyến khích DN đòi nợ thực hiện các hành vi bất hợp pháp (đe dọa, sử dụng vũ lực…) để đòi nợ. Song, ngay cả khi xảy ra tình huống như vậy, về mặt pháp luật, DN đòi nợ không được và cũng không thể chấp nhận các yêu cầu này, bởi họ có nghĩa vụ thực hiện việc đòi nợ theo đúng quy định pháp luật. Nghĩa là, chủ nợ có thể yêu cầu hoặc khuyến nghị cách thức thực hiện đòi nợ, nhưng việc có chấp nhận hay không là trách nhiệm của DN.
Vì vậy, trường hợp DN đòi nợ thực hiện việc đòi nợ theo cách thức pháp luật cấm, thì DN đòi nợ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm với việc này, không quan trọng là hành vi này xuất phát từ gợi ý hay yêu cầu của ai. Bên cạnh đó, chủ nợ – với tư cách là khách hàng, sẽ không phải chịu trách nhiệm với bên cung cấp dịch vụ, bởi về mặt nguyên tắc, họ không thể kiểm soát/can thiệp được các hoạt động của bên cung cấp dịch vụ.
Chưa ổn quy định vốn 2 tỷ đồng
So với Nghị định 104, dự thảo điều chỉnh khái niệm từ “vốn pháp định” thành “vốn điều lệ” và vẫn giữ nguyên mức vốn là 2 tỷ đồng. Tuy nhiên, việc thay đổi này, ban soạn thảo không giải trình cụ thể về lý do và mục tiêu về việc yêu cầu mức vốn tối thiểu của DN kinh doanh dịch vụ đòi nợ.
So với Nghị định 104, dự thảo điều chỉnh khái niệm từ “vốn pháp định” thành “vốn điều lệ” và vẫn giữ nguyên mức vốn là 2 tỷ đồng. Tuy nhiên, việc thay đổi này, ban soạn thảo không giải trình cụ thể về lý do và mục tiêu về việc yêu cầu mức vốn tối thiểu của DN kinh doanh dịch vụ đòi nợ.
Nếu gắn trách nhiệm của khách hàng với bên cung cấp dịch vụ, sẽ không có khách hàng nào muốn sử dụng dịch vụ đòi nợ. Bởi lẽ vì nhiều trường hợp sẽ phải chịu thiệt hại đối với những hoạt động của bên đòi nợ. Nhận định của VCCI |
Theo VCCI, trong các văn bản góp ý trước đây liên quan đến điều kiện kinh doanh của dịch vụ đòi nợ, VCCI đều nhấn mạnh, điều kiện về vốn của hoạt động kinh doanh này là chưa phù hợp với mục tiêu khi quy định về điều kiện kinh doanh: Không rõ tại sao DN kinh doanh dịch vụ đòi nợ lại phải đáp ứng yêu cầu về vốn pháp định?
Nếu không có đủ nguồn vốn này các lợi ích công cộng nào sẽ bị tác động? Không nhận thấy tác động đáng kể nào từ hoạt động kinh doanh này liên quan đến lợi ích công cộng.
Xét bản chất, mối quan hệ giữa chủ nợ và DN đòi nợ được xác lập trên cơ sở các thỏa thuận tư. Những rủi ro phát sinh từ hoạt động đòi nợ (DN đòi nợ không trả lại số tiền nợ đã đòi được từ con nợ cho chủ nợ) sẽ được giải quyết tranh chấp trên cơ sở hợp đồng của hai bên, khoản tiền vốn pháp định mà DN phải đáp ứng sẽ không phải là yếu tố đảm bảo cho quyền lợi của chủ nợ (đó là chưa kể khoản nợ có thể lớn hơn rất nhiều con số 2 tỷ đồng).
Đối với mục tiêu đảm bảo an ninh trật tự (vấn đề đang được xem là cơ bản, cần phải quản lý đối với hoạt động kinh doanh này), cũng chưa có bằng chứng rõ ràng về việc những DN có tiềm lực kinh tế sẽ đảm bảo tuân thủ pháp luật về an ninh trật tự hơn các DN không có tiềm lực kinh tế.