Sau vụ việc Ấn Độ khởi xướng điều tra chống trợ cấp với mặt hàng kính cường lực tráng và không tráng có xuất xứ hoặc nhập khẩu từ Việt Nam hồi tháng Hai, mới đây Tổng vụ Phòng vệ Thương mại Ấn Độ (DGTR) lại ban hành Bản câu hỏi điều tra chống bán phá giá mặt hàng kính cường lực tráng và không tráng có xuất xứ hoặc nhập khẩu từ Việt Nam và Trung Quốc cho thấy xu hướng bảo hộ gia tăng, hàng hóa Việt Nam ngày càng đối diện nhiều hơn với các vụ điều tra phòng vệ thương mại từ nước ngoài.
Năm 2024, dự báo xuất khẩu hàng hóa tiếp tục gia tăng, thị trường tiếp tục được mở rộng nhờ việc thực thi các Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) bước vào giai đoạn mới, vì thế nguy cơ bị điều tra phòng vệ thương mại gia tăng. Vì vậy, doanh nghiệp cần chủ động ứng phó với vụ kiện phòng vệ thương mại nhằm giảm rủi ro và tăng lợi thế cho hàng hóa xuất khẩu.
Thống kê từ Cục Phòng vệ Thương mại thuộc Bộ Công Thương, cho thấy số vụ kiện phòng vệ thương mại đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam tăng mạnh, chiếm 65% tổng số vụ việc trong vòng 20 năm qua. Đặc biệt, hàng hóa xuất khẩu Việt Nam đã đối diện với 239 vụ việc liên quan kiện phòng vệ thương mại và mặt hàng bị điều tra phòng vệ thương mại ngày một đa dạng.
Cùng đó, các vụ việc phòng vệ thương mại trước đây chủ yếu tập trung vào chống bán phá giá, chống trợ cấp tự vệ nhưng gần đây việc điều tra chống lẩn tránh thuế phòng vệ thương mại ngày càng nhiều hơn. Không dừng lại ở đó, xu hướng điều tra phòng vệ thương mại đối với hàng hoá xuất khẩu Việt Nam ngày càng mở rộng sang các nước đang phát triển cũng như các nước có hiệp định thương mại tự do (FTA) với Việt Nam.
Bà Nguyễn Thị Thu Trang, Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), chia sẻ số lượng các vụ việc phòng vệ thương mại ở trong vài năm trở lại đây tăng nhanh hơn nhiều so với giai đoạn trước. Hơn nữa, số lượng các mặt hàng và lĩnh vực của các ngành hàng bị kiện phòng vệ thương mại đã mở rộng hơn.
Ngoài ra, trước đây chỉ ở những thị trường xuất khẩu trọng điểm của Việt Nam mới bị kiện phòng vệ thương mại nhưng hiện nay kể cả những thị trường mới cũng có số vụ việc phòng vệ thương mại chiếm tỷ lệ rất lớn như Hoa Kỳ, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, sau đó là Canada, EU, Philippines, Indonesia…
Theo bà Nguyễn Thị Thu Trang, kiện phòng vệ thương mại là một quy trình pháp lý, đấu tranh về mặt kỹ thuật rất phức tạp. Qua theo dõi có thể thấy phần lớn trường hợp Việt Nam kháng kiện chưa hiệu quả xuất phát do bị động, thời gian chuẩn bị quá ít và bất ngờ trong việc ứng phó. Vì vậy, cơ chế cảnh báo sớm cho phép nhìn thấy nguy cơ từ xa để chuẩn bị từ sớm và giúp giải quyết được một vấn đề mà phần lớn doanh nghiệp gặp phải là không có đủ thời gian.
Ông Trịnh Anh Tuấn, Cục trưởng Cục Phòng vệ Thương mại, cho biết thời gian qua, Cục Phòng vệ Thương mại thường xuyên theo dõi và cung cấp danh sách cảnh báo sớm một số mặt hàng xuất khẩu có nguy cơ bị điều tra phòng vệ thương mại, điều tra chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại và gian lận xuất xứ.
Bên cạnh việc đưa ra các cảnh báo xuất khẩu, việc cảnh báo sớm còn bao gồm nhiều hoạt động được triển khai một cách đồng bộ và thường xuyên như đào tạo, nâng cao nhận thức, kiến thức về phòng vệ thương mại một cách tổng quát và chuyên sâu cho các đối tượng liên quan như doanh nghiệp sản xuất xuất khẩu, hiệp hội, các cơ quan quản lý Nhà nước liên quan tại trung ương và địa phương…
Cùng đó, Cục Phòng vệ Thương mại còn phối hợp trao đổi, cung cấp thông tin về phòng vệ thương mại, như là các thay đổi trong chính sách phòng vệ thương mại trên thế giới, thay đổi về xu hướng phòng vệ thương mại hay các thông lệ quốc tế mới về phòng vệ thương mại để các doanh nghiệp, hiệp hội liên quan có sự cập nhật kịp thời.
Thế nhưng, ông Trịnh Anh Tuấn cũng chỉ ra rằng, mặc dù đã có những cải thiện đáng kể về mức độ nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp về biện pháp phòng vệ thương mại nhưng mức độ hiểu biết nói chung của doanh nghiệp về phòng vệ thương mại vẫn còn hạn chế. Việc này còn hạn chế hơn ở cấp độ ngành nghề cụ thể, do đó ảnh hưởng tới việc hợp tác, phối hợp cung cấp thông tin khi xây dựng hồ sơ đề nghị điều tra.
Mặt khác, các biện pháp phòng vệ thương mại để bảo vệ lợi ích hợp pháp của một ngành, lĩnh vực cụ thể. Vì thế, để áp dụng được biện pháp này cần có sự liên kết, hợp tác giữa doanh nghiệp trong ngành nhằm đảm bảo yêu cầu về quy định pháp lý như tính đại diện khi nộp hồ sơ, tính đại diện của ngành sản xuất trong nước…
Trước xu thế gia tăng của bảo hộ thương mại, để tránh nguy cơ mất thị phần trong nước cũng như tăng cường xuất khẩu, ông Trịnh Anh Tuấn nhấn mạnh Bộ Công Thương mà đầu mối là Cục Phòng vệ Thương mại đã và đang tiếp tục chủ động phối hợp với các bộ, ngành, địa phương, hiệp hội, doanh nghiệp xử lý, ứng phó hiệu quả với vụ việc điều tra phòng vệ thương mại của nước ngoài với hàng hóa xuất khẩu Việt Nam thông qua hoạt động đa dạng. Cụ thể như cảnh báo sớm nguy cơ bị điều tra phòng vệ thương mại để doanh nghiệp chủ động xây dựng kế hoạch xử lý.
Cùng đó, trao đổi kịp thời với hiệp hội, doanh nghiệp để cung cấp thông tin cập nhật giúp doanh nghiệp nắm được diễn biến vụ việc; tư vấn pháp lý, quy trình thủ tục điều tra, quy định/thông lệ điều tra của nước khởi kiện và đưa ra các khuyến nghị, hướng xử lý cụ thể cho doanh nghiệp.
Đặc biệt, Cục Phòng vệ thương mại cũng đã trao đổi, tham vấn đưa ra quan điểm của Việt Nam về các khía cạnh pháp lý và thực tiễn của vụ việc với Cơ quan điều tra của nước ngoài, đề nghị tuân thủ các quy định của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Ngoài ra, Cục Phòng vệ Thương mại còn xem xét khởi kiện biện pháp phòng vệ thương mại của cơ quan điều tra nước ngoài nếu có dấu hiệu vi phạm các quy định của WTO.
Chế biến cá tra xuất khẩu. (Ảnh: Danh Lam/TTXVN)
Theo ông Trịnh Anh Tuấn, hoạt động này đã đem lại những kết quả tích cực, ghi nhận nhiều vụ việc Việt Nam thành công trong việc chứng minh doanh nghiệp không bán phá giá hay Chính phủ không trợ cấp, không can thiệp vào thị trường để tạo lợi thế bất bình đẳng cho doanh nghiệp xuất khẩu. Nhờ đó, doanh nghiệp xuất khẩu không bị áp thuế phòng vệ thương mại hoặc bị áp thuế ở mức thấp so với cáo buộc ban đầu hoặc so với các nước khác cùng bị áp thuế, góp phần giữ vững và mở rộng thị trường xuất khẩu.
Một số kết quả đạt được trong năm 2022 và đầu năm 2023 như Australia chấm dứt thuế chống bán phá giá với nhôm định hình, chấm dứt điều tra chống bán phá giá với amoni nitrat; Hoa Kỳ kết luận Việt Nam không lẩn tránh thuế với thép dây không gỉ và tạm thời miễn thuế phòng vệ thương mại đối với pin mặt trời; Ấn Độ dỡ bỏ lệnh áp thuế chống bán phá giá với thép mạ hợp kim nhôm kẽm của Việt Nam…
Tuy nhiên, để đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng, ông Trịnh Anh Tuấn khuyến nghị doanh nghiệp cần tìm hiểu quy định pháp luật, thực tiễn điều tra phòng vệ thương mại, chống lẩn tránh của các nước xuất khẩu, nhất là với các thị trường mục tiêu.
Mặt khác, doanh nghiệp phải thường xuyên cập nhật thông tin cảnh báo sớm từ Bộ Công Thương để có hành động sớm, kịp thời và có chiến lược xuất khẩu phù hợp, đồng thời thiết lập các kênh thông tin với đối tác, hiệp hội, ngành hàng để kịp thời cập nhật, xử lý vụ kiện, tình huống phát sinh. Đi liền đó là việc đa dạng hóa thị trường và sản phẩm, tránh tăng trưởng xuất khẩu quá nóng vào một thị trường, nhất là với thị trường thường xuyên sử dụng công cụ phòng vệ thương mại hoặc đã từng điều tra phòng vệ thương mại với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam.
Ông Trịnh Anh Tuấn cũng lưu ý doanh nghiệp cần nâng cao chuỗi giá trị của sản phẩm, đồng thời chuyển dần sang cạnh tranh bằng chất lượng và hạn chế việc cạnh tranh bằng giá; có chiến lược kiểm soát lượng xuất khẩu và giá bán một cách phù hợp để tránh bị coi là bán phá giá, nhận trợ cấp.
Hơn nữa, hoàn thiện hệ thống quản trị doanh nghiệp, triển khai hệ thống quản lý, truy xuất nguồn gốc nguyên liệu rõ ràng, minh bạch; áp dụng hệ thống kế toán theo chuẩn quốc tế, lưu giữ đầy đủ hóa đơn, chứng từ để có thể chứng minh không bán phá giá, không trợ cấp, không lẩn tránh khi bị điều tra.
Đặc biệt, tuân thủ chặt chẽ quy định về chứng nhận xuất xứ; không tiếp tay cho hành vi gian lận xuất xứ, lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại, phối hợp với Bộ Công Thương trong việc ngăn chặn các hành vi giả mạo, gian lận xuất xứ và chuyển tải bất hợp pháp.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp phải hợp tác đầy đủ, toàn diện, cung cấp thông tin, tài liệu theo yêu cầu của cơ quan điều tra nước ngoài khi là đối tượng bị điều tra; phối hợp chặt chẽ với Bộ Công Thương trong quá trình ứng phó vụ việc để được hướng dẫn, hỗ trợ kịp thời.