Số liệu của Tổng cục Hải quan cho thấy, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng gỗ của Việt Nam sang Mỹ tăng từ 43% năm 2018 trên tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước, lên 50% năm 2019, và 53% vào 8 tháng đầu 2020. Mặc dù có sự tăng trưởng bứt phá 2 con số song các doanh nghiệp (DN) ngành gỗ đang đối mặt với nhiều vụ kiện gian lận thương mại.
Theo Tổng cục Lâm nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hiện DN gỗ trong nước đang vướng phải 2 vụ kiện liên quan đến mặt hàng ván dán xuất khẩu sang Mỹ và Hàn Quốc.
Chủ tịch Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (Vifores) cho biết, không chỉ có mặt hàng gỗ dán đang bị Chính phủ Mỹ thực hiện điều tra, hiện còn có 2 mặt hàng mà đang có tín hiệu rủi ro, đó là mặt hàng tủ bếp/tủ nhà tắm làm từ gỗ dán và ghế sofa có khung làm từ gỗ dán.
Ông Đỗ Xuân Lập cho rằng, kiểm soát chặt chẽ gian lận thương mại là vấn đề sống còn đối với ngành gỗ. Thông tin từ các Hiệp hội các địa phương cho biết hiện có một số doanh nghiệp Trung Quốc đang thuê pháp nhân một số doanh nghiệp của Việt Nam để nhập khẩu những sản phẩm đã hoàn thiện để xuất khẩu sang Mỹ.
"Đây là những dấu hiệu về gian lận thương mại tương đối rõ ràng. Việc thành lập chi hội tủ bếp có sự tham gia của các doanh nghiệp sản xuất tủ bếp chân chính của Trung Quốc là cầu nối và kênh thông tin quan trọng cho việc vạch trần những doanh nghiệp núp bóng, trốn xuất xứ như đang diễn ra", ông Lập lưu ý.
Bình luận về vấn đề này, ông Ngô Sỹ Hoài, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam nhận định, xu hướng rủi ro trong các vụ kiện liên quan đến chống bán phá giá đối với các mặt hàng gỗ xuất khẩu từ Việt Nam ngày càng gia tăng, đặc biệt trong bối cảnh ngành gỗ Việt Nam hội nhập sâu rộng với thị trường thế giới.
“Nếu không chứng minh được nguồn gốc gỗ dán xuất khẩu vào Hoa Kỳ, gỗ dán Việt Nam có thể phải đối mặt với mức thuế chống lẩn tránh tương đương với mức thuế mà Hoa Kỳ đang áp lên gỗ dán của Trung Quốc là hơn 200% và kéo theo rủi ro tương tự cho các sản phẩm được làm từ gỗ dán như tủ bếp, ván sàn, nội thất…”, ông Hoài nhấn mạnh.
Liên quan đến các vụ kiện đối với DN ngành gỗ, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Công Tuấn cho biết, Bộ sẽ tiếp tục đồng hành, tháo gỡ, xem xét những vấn đề về cơ chế chính sách và hài hòa hóa các quy định và thông lệ quốc tế để ngành gỗ phát triển bền vững hơn. Đồng thời, lắng nghe ý kiến của các DN, hiệp hội để DN làm ăn có hiệu quả, góp phần có ý nghĩa vào việc phát triển kinh tế xã hội chung của cả nước.
Ông Bùi Chính Nghĩa - Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp cam kết sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Cục Phòng vệ thương mại - Bộ Công Thương để hướng dẫn và kịp thời can thiệp theo thẩm quyền với phía đối tác. Đồng thời, phối hợp chặt chẽ với Viforest và các Hiệp hội gỗ cùng chung tay với các DN chủ động chuẩn bị, có giải pháp ứng phó hiệu quả trong việc theo đuổi xử kiện thương mại, đảm bảo quyền lợi chính đáng của các DN làm ăn chân chính.
Để tạo hành lang pháp lý chuẩn mực cho ngành gỗ trước áp lực cạnh tranh và các vụ kiện chống bán phá giá, mới đây nhất ngày 1/9, Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 102/2020/NĐ-CP ngày 1/9/2020 quy định hệ thống bảo đảm gỗ hợp pháp Việt Nam.
Theo đó, nghị định quy định rõ việc quản lý gỗ xuất, nhập khẩu. Gỗ xuất, nhập khẩu phải bảo đảm hợp pháp, được làm thủ tục xuất, nhập khẩu và chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan hải quan theo quy định của pháp luật về hải quan.
Quản lý gỗ xuất, nhập khẩu được thực hiện trên cơ sở áp dụng biện pháp quản lý rủi ro để phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật, bảo đảm gỗ nhập khẩu hợp pháp. Đối với gỗ xuất khẩu, được quản lý theo loại gỗ, thị trường xuất khẩu và trên cơ sở kết quả phân loại doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu gỗ. Gỗ xuất khẩu phải có giấy phép CITES hoặc giấy phép FLEGT hoặc bảng kê gỗ theo quy định…
Những biện pháp nghiêm ngặt này được đánh giá là sẽ góp phần giúp cho các lực lượng chức năng “gác cửa” có thêm cơ sở pháp lý để đấu tranh chống gian lận. Đồng thời, đây cũng là yêu cầu bắt buộc, đòi hỏi doanh nghiệp xuất khẩu gỗ phải làm đúng ngay từ đầu nếu không muốn phải đối mặt với hậu quả nặng từ các vụ kiện phòng vệ thương mại có thể xảy ra.