
“Quân bài” không dễ hóa giải
Câu chuyện đất hiếm trở thành thứ tối quan trọng để các nước đem ra mặc cả trong các cuộc chiến thương mại, hay gây sức ép lên đối thủ mỗi khi đàm phán, thỏa thuận đã không còn mới. Song sau hàng chục năm, đất hiếm vẫn được đưa ra sử dụng vào những thời điểm quyết định trong các cuộc mặc cả quốc tế, đã cho thấy vai trò của loại khoáng sản này không bị sụt giảm theo thời gian mà ngày càng trở nên quan trọng, và “quân bài” này cũng không dễ có thể “hóa giải”.
Đơn cử, gần hai chục năm qua đất hiếm chính là “quân bài” Trung Quốc sử dụng để đối phó với các đối thủ thương mại. Năm 2010, Trung Quốc từng tuyên bố hạn chế xuất khẩu đất hiếm sang Nhật Bản trong nhiều tuần liên tiếp, khi một cuộc tranh chấp lãnh thổ trên biển giữa hai bên xảy ra.
Việc này khiến nhiều ngành công nghiệp công nghệ cao của Nhật Bản lao đao, bởi quốc gia này nhập khẩu đất hiếm nhiều nhất từ Trung Quốc. Tiếp đó, năm 2019, tại thời điểm cuộc chiến thương mại với Mỹ đang căng thẳng, chính phủ Trung Quốc đã cắt giảm xuất khẩu đất hiếm để tạo sức ép với chính quyền Washington.
Theo tổ chức nghiên cứu địa chất Geological Survey của Mỹ ước tính, trữ lượng đất hiếm của toàn thế giới vào khoảng 120 triệu tấn, trong đó Trung Quốc sở hữu 44 triệu tấn, 21 triệu tấn ở Brazil, 18 triệu tấn ở Nga...
Đáng chú ý, cũng theo ước tính của tổ chức này, Việt Nam là quốc gia có trữ lượng đất hiếm lớn thứ 2 trên thế giới, vào khoảng 22 triệu tấn, phân bố chủ yếu ở vùng núi Tây Bắc. Tuy vậy, khai thác đất hiếm có thể làm ảnh hưởng xấu đến môi trường, hoặc do việc khai thác khó khăn và tốn kém, nhiều quốc gia không thực hiện khai thác các nguyên tố đất hiếm.
Do đó, từ lâu Mỹ và nhiều nước khác đã dựa vào nguồn cung ứng đất hiếm dồi dào từ phía Trung Quốc, quốc gia khai thác và xuất khẩu đất hiếm lớn nhất thế giới.
Hiện nay, các quốc gia phương Tây đang tìm những giải pháp nhằm hạn chế sự phụ thuộc vào nguồn cung đất hiếm từ Trung Quốc. Các giải pháp bao gồm mở rộng khai thác các mỏ đất hiếm trong nước, phát triển những công nghệ để giảm tác động xấu đến môi trường khi khai thác đất hiếm.
Tuy nhiên, đến nay các nước nói trên vẫn chưa thể giảm ngay được sự phụ thuộc vào nguồn cung từ Trung Quốc. Đó có lẽ cũng là lý do chính quyền Tổng thống Mỹ Donald Trump nhất quyết gây sức ép lên Ukraine phải ký kết một thỏa thuận cho Mỹ khai thác đất hiếm. Ngược lại, phía Nga cũng không bỏ qua, dùng đất hiếm làm “miếng bánh” để mời gọi Mỹ đi đến một thỏa thuận để chấm dứt cuộc chiến với những điều khoản có lợi cho mình.
Phải làm chủ được đất hiếm
Hiện nay, các chuyên gia đều có chung nhận định, Việt Nam hoàn toàn có thể sử dụng đất hiếm để mặc cả trong các thỏa thuận giữa bối cảnh cuộc chiến thuế quan có nguy cơ leo thang. Tuy nhiên, các chuyên gia cũng chỉ ra rằng, Việt Nam cũng gặp phải những trở ngại ngay cả khi đang nắm trữ lượng đất hiếm khổng lồ.
Khó khăn lớn nhất chính là sự lệch pha giữa trữ lượng/tài nguyên đất hiếm dồi dào, song lại không đi kèm với công nghệ nội địa hiện đại để có thể khai thác và tinh chế để xuất khẩu. Trong khi đó, Trung Quốc đã trở thành một trong những nước đi đầu về công nghệ khai thác và tinh chế đất hiếm.
Do đó, trong điều kiện hiện nay, Việt Nam cần nắm bắt cơ hội để hợp tác và nhận chuyển giao công nghệ từ các nước có nền công nghiệp khai thác, chế biến đất hiếm phát triển. Đó là chưa kể để làm chủ quy trình công nghệ đất hiếm từ khai thác tới tách chiết, có thể sẽ đòi hỏi thời gian 10-15 năm, tùy thuộc vào các cam kết cụ thể trong hợp đồng giữa doanh nghiệp Việt Nam và đối tác nước ngoài.
Trên thực tế, từ những năm 2010-2011, Nhật Bản từng ngỏ lời với Việt Nam và trực tiếp tham gia thăm dò và khảo sát, nhưng cuối cùng họ chọn đối tác Lynas của Australia để hợp tác khai thác, chế biến đất hiếm vào năm 2011. Doanh nghiệp Nhật đã đầu tư 250 triệu USD vào Lynas, biến công ty trở thành nhà cung cấp ngoài Trung Quốc lớn nhất, cung cấp một phần ba tổng lượng đất hiếm nhập khẩu của Nhật Bản.
4 yếu tố quyết định
Theo PGS.TS Nguyễn Phương, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Địa chất Kinh tế Việt Nam, người đã có hơn 50 năm nghiên cứu về lĩnh vực khoáng sản (trong đó có đất hiếm), cho rằng bài toán đất hiếm cần được xem xét, đánh giá kỹ lưỡng về nhiều mặt.
Thứ nhất, về mặt công nghệ, Việt Nam chưa làm chủ được công nghệ tinh chế quặng đất hiếm, đặc biệt tách chiết ra từng nguyên tố đất hiếm. Để đạt được tinh quặng 95% trở lên, Việt Nam phải hợp tác với nước ngoài.
Hiện tại, trong phòng thí nghiệm các nhà khoa học Việt Nam có thể nâng tỷ lệ tinh chế của quặng oxit đất hiếm lên tới 70%, hoặc thậm chí cao hơn, nhưng từ phòng thí nghiệm chuyển sang quy mô pilot (quy mô lớn hơn nhiều so với quy mô phòng thí nghiệm nhưng nhỏ hơn quy mô sản xuất) đến khai thác công nghiệp sẽ cần thêm nhiều thời gian.
Thứ hai về nhân lực. Trên thực tế, việc nghiên cứu đất hiếm tại Việt Nam đã bắt đầu từ cuối những năm 1970. Việt Nam đã có các trường đại học đào tạo sâu về lĩnh vực tuyển khoáng, chế biến khoáng sản. Tuy nhiên, nhân lực về ngành đất hiếm của Việt Nam hiện mới chỉ thiên về mặt nghiên cứu lý thuyết và trong phòng thí nghiệm, chứ chưa có nhiều kinh nghiệm thực hành.
Điểm thiếu hụt này có thể được bù đắp trong quá trình làm việc ở các dự án hợp tác với doanh nghiệp ngoại, nghĩa là trong ràng buộc hợp đồng cần có yêu cầu về đào tạo nguồn nhân lực.
Thứ ba về tác động môi trường. Cần đánh giá về công nghệ và mức độ hoàn thiện chu trình từ khai thác tới tách chiết các nguyên tố đất hiếm có thể được mang tới Việt Nam, và đảm bảo công nghệ này không gây ra các vấn đề về môi trường.
Bên cạnh đó, việc khai thác, tinh chế quặng đất hiếm và tách chiết kim loại đất hiếm không nên và không chỉ dành cho xuất khẩu, thay vào đó Việt Nam nên có những thỏa thuận “đổi chác” về công nghệ.
Các mỏ đất hiếm của Việt Nam được chia làm 2 loại, đất hiếm chứa các nguyên tố nhẹ và đất hiếm chứa các nguyên tố nặng. Các mỏ chứa nguyên tố nặng có trữ lượng thấp hơn. Trong thời gian qua, Việt Nam vẫn đang tiếp tục khảo sát, nghiên cứu các mỏ đất hiếm mới, để xác định nguyên tố trong đó.