Người bệnh rung nhĩ và thiếu máu não thoáng qua cần tuân thủ các biện pháp dự phòng đột quỵ theo chỉ dẫn của bác sĩ để phòng ngừa biến chứng nguy hiểm này.
Đánh giá nguy cơ đột quỵ
Rung nhĩ là tình trạng tim đập loạn nhịp, gây ứ trệ máu trong buồng tim dẫn đến hình thành những cục huyết khối trong tâm nhĩ. Các cục huyết khối này có thể trôi theo dòng máu và gây tắc mạch, trường hợp tắc mạch máu não sẽ dẫn đến đột quỵ.
Khi bị đột quỵ liên quan đến rung nhĩ mức độ rất nặng, tắc những mạch máu lớn và thường não sẽ bị thiếu máu nặng gây ra đột quỵ nhồi máu não. Nguy cơ sau đó của người bệnh có thể là tử vong, tàn phế, thậm chí sau khi điều trị phần nào về sau bệnh nhân vẫn có thể tái phát đột quỵ nhiều hơn do rung nhĩ gây ra.
Thời gian tối thiểu kể từ khi rung nhĩ xuất hiện một cách âm thầm dẫn đến đột quỵ là ít nhất 24 giờ. Một câu hỏi được quan tâm là có phải tất cả bệnh nhân rung nhĩ đều có thể bị đột quỵ hay không. Thực tế là không. Nguy cơ đột quỵ có thể thường gặp hơn ở người tuổi cao (từ 65 tuổi trở lên), có tiền sử đột quỵ, thiếu máu não thoáng qua hoặc thuyên tắc mạch hệ thống, người bệnh mắc các bệnh lý suy tim ứ huyết, tăng huyết áp, đái tháo đường hoặc các bệnh mạch máu.
Để đánh giá nguy cơ đột quỵ ở người bệnh rung nhĩ, các bác sĩ thường dùng thang điểm CHA2DS2-VASc. Với thang điểm này, mức độ điểm càng cao, nguy cơ đột quỵ ở người bệnh càng lớn. Với thang điểm này cao nhất là 9 điểm, người bệnh có khả năng bị nguy cơ đột quỵ lên tới 24% trong vòng một năm.
Thường thang điểm này bác sĩ cân nhắc điều trị dự phòng với thang điểm 1. Thang điểm chỉ tiên lượng khả năng đột quỵ, còn độ nặng như thế nào tùy tắc mạch máu lớn hay nhỏ. Tuy nhiên bệnh nhân đột quỵ do rung nhĩ thường có thống kê cho thấy mức độ tàn phế và nguy cơ tử vong cao hơn so với nhóm bệnh nhân đột quỵ không do rung nhĩ.
Tại bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM, với thế mạnh trong phối hợp đa chuyên khoa, bệnh viện đã xây dựng phác đồ điều trị toàn diện cho người bệnh rung nhĩ từ bước chẩn đoán, đánh giá nguy cơ đến quyết định phương pháp điều trị, chiến lược dự phòng các biến chứng trong đó có đột quỵ. Bệnh viện cũng đã triển khai nhiều tiến bộ trong điều trị, trang bị đầy đủ các thiết bị, phương tiện để xử trí kịp thời các tình huống ảnh hưởng xấu đến sức khỏe người bệnh.
Các phương pháp dự phòng giảm nguy cơ tác động
Thiếu máu não thoáng qua là tình trạng giảm tưới máu não trong một thời gian ngắn. Về bản chất, thiếu máu thoáng qua cũng được xem như một cơn đột quỵ nhẹ. Nguy cơ đột quỵ và tái phát đột quỵ trên người bệnh thiếu máu não thoáng qua rất cao. Cụ thể 12% trong khoảng 30 ngày; 17% trong khoảng 90 ngày (3 tháng) - gấp 4 lần so với tỷ lệ chung của các loại đột quỵ. Do đó, người bệnh không được chủ quan và phải có các phương pháp dự phòng tái phát đột quỵ nhằm giảm nguy cơ tác động.
Theo thống kê, có khoảng 20-40% các trường hợp đột quỵ được báo trước bởi một cơn thoáng thiếu máu não hoặc đột quỵ nhẹ không gây tàn phế. Chiến lược dự phòng đột quỵ tái phát trên người bệnh thiếu máu não thoáng qua gồm: dự phòng theo căn nguyên và dự phòng các yếu tố nguy cơ.
Dự phòng theo căn nguyên thường được tiến hành trên người bệnh rung nhĩ với những phương pháp phổ biến như dùng thuốc kháng đông, kháng kết tập tiểu cầu, can thiệp hẹp động mạch cảnh. Các yếu tố nguy cơ cao gây đột quỵ trên người bệnh cũng được kiểm soát tối đa nhằm giảm nguy cơ ở mức thấp nhất.
Các bác sĩ khuyến cáo, mỗi người bệnh rung nhĩ và thiếu máu não thoáng qua nên chủ động tầm soát đột quỵ 1-2 lần mỗi năm. Bên cạnh đó, cần tuân thủ điều trị, dùng thuốc theo đúng chỉ định và tái khám đầy đủ để được bác sĩ theo dõi, điều chỉnh thích hợp. Đồng thời, cần xây dựng và duy trì chế độ dinh dưỡng khoa học, thói quen sinh hoạt lành mạnh để hạn chế tối đa các biến chứng nguy hiểm.
Đã có không ít trường hợp bệnh nhân tự ý ngưng thuốc dẫn đến những biến chứng nguy hiểm cho sức khỏe. Điển hình, mới đây bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM vừa tiếp nhận cấp cứu đột quỵ cho người bệnh P.V.H. (46 tuổi, ngụ tại TPHCM). Anh H. đang được theo dõi điều trị rung nhĩ và uống thuốc kháng đông để dự phòng đột quỵ. Tuy nhiên do công việc bận rộn, anh H. bỏ tái khám và ngưng uống thuốc suốt 5 ngày.
Trong lúc đang làm việc anh đột ngột bị liệt tai trái, méo miệng, được người thân đưa đến cấp cứu tại bệnh viện. Ngay khi anh H. vào khoa cấp cứu, quy trình báo động đột quỵ được kích hoạt. Người bệnh được chẩn đoán đột quỵ thiếu máu não do tắc mạch máu lớn nội sọ do huyết khối, và được chỉ định can thiệp lấy huyết khối cơ học tái thông mạch máu kịp thời.
Điều này cho thấy việc chủ quan bỏ thuốc kháng đông khi đang điều trị dự phòng có thể là nguyên nhân dẫn đến biến chứng đột quỵ. Đây là một trong những biến chứng đáng sợ nhất của bệnh rung nhĩ. May mắn người bệnh được cấp cứu và can thiệp kịp thời nên tránh được các hậu quả nặng nề. Sau can thiệp, người bệnh đã phục hồi vận động nửa người trái và được theo dõi chăm sóc tiếp tại đơn vị đột quỵ của bệnh viện.