Việt Nam được các ông lớn quan tâm
Trong các cuộc gặp gỡ gần đây với các nhà đầu tư quốc tế, chúng tôi đã được hỏi “Liệu Việt Nam có thể “thoát khỏi” khả năng suy thoái kinh tế toàn cầu trong năm tới, khi hầu hết quốc gia đang phải vật lộn với tăng trưởng GDP chậm lại và lạm phát gia tăng”? Thực tế, tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam đã và đang được đẩy nhanh vào năm 2022.
Do đó, Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và các tổ chức khác gần đây đã điều chỉnh mạnh mẽ dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam, với kỳ vọng sẽ vượt 7-8% trong năm nay. Điều này đã khiến các nhà đầu tư đặt ra câu hỏi: Việt Nam có gì khác biệt và tại sao lại như vậy?
Một lý do khiến nền kinh tế Việt Nam vượt trội là vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đang hỗ trợ lĩnh vực sản xuất, thúc đẩy tăng cường mức độ phức tạp của các sản phẩm được sản xuất tại Việt Nam.
Theo nghiên cứu của Đại học Harvard, điều này rất quan trọng, vì sự gia tăng mức độ phức tạp của các sản phẩm một quốc gia đang phát triển, có thể là động lực tăng trưởng mạnh mẽ nhất cho nền kinh tế của quốc gia đó. Những thông tin từ Samsung, Apple và những công ty khác được nêu dưới đây, làm chúng tôi tin tưởng rằng các nguồn vốn FDI vào lĩnh vực công nghệ cao sẽ tiếp tục thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong nhiều năm tới.
Cụ thể, Samsung, nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất của Việt Nam, đã thông báo sẽ bắt đầu sản xuất các bộ phận bán dẫn tại Việt Nam. Apple cũng thông báo sẽ bắt đầu sản xuất Apple Watch và MacBook tại Việt Nam. Đây sẽ là lần đầu tiên những sản phẩm này được sản xuất bên ngoài Trung Quốc.
Theo những người trong cuộc, Apple có kế hoạch lớn cho Việt Nam và họ cũng lưu ý rằng Apple Watch đặc biệt phức tạp để sản xuất, vì thách thức trong việc lắp đặt nhiều linh kiện vào chiếc vỏ nhỏ như đồng hồ.
Động lực từ FDI
Theo nghiên cứu của Trường Kinh tế London (LSE) và WB, FDI là công cụ “giúp các nền kinh tế đang phát triển tiến vào các phần có giá trị gia tăng cao hơn của chuỗi giá trị”, và FDI công nghệ cao đã có tác động tích cực to lớn đến nền kinh tế Việt Nam. Intel và Samsung đều tăng cường sản xuất tại các nhà máy đầu tiên của họ ở Việt Nam vào năm 2010, và xuất khẩu công nghệ cao của Việt Nam sau đó đã tăng gần 20 lần.
Hơn nữa, Việt Nam đã đạt được bước nhảy vọt lớn nhất trong xếp hạng Chỉ số Phức tạp kinh tế (ECI) của Harvard trong 2 thập niên qua, một phần do các khoản đầu tư của Samsung và Intel đã thu hút các khoản đầu tư công nghệ cao khác từ Apple, LG Electronics, Dell và rất nhiều công ty Nhật Bản.
Những động lực chính thúc đẩy các doanh nghiệp thành lập nhà máy công nghệ cao tại Việt Nam, bao gồm lực lượng lao động có kỹ năng cao, mặt bằng lương thấp và vị trí địa lý gần với các chuỗi cung ứng công nghệ cao ở châu Á. Minh chứng là căng thẳng thương mại Mỹ - Trung đã thúc đẩy sự dịch chuyển năng lực sản xuất từ Trung Quốc sang Việt Nam. Thặng dư thương mại của Việt Nam với Mỹ tăng hơn gấp đôi từ 35 tỷ USD năm 2018 lên 71 tỷ USD (tương đương/GDP) trong năm 2021.
Cùng lúc thâm hụt thương mại với Trung Quốc cũng tăng hơn gấp đôi lên 54 tỷ USD. Trong thông báo mới đây, Chính quyền Tổng thống Biden sẽ giữ nguyên mức thuế đối với hàng nhập khẩu của Trung Quốc. Điều này về cơ bản đảm bảo các tập đoàn đa quốc gia sẽ tiếp tục rót vốn vào Việt Nam trong nhiều năm tới.
Nâng cao chuỗi giá trị thúc đẩy tăng trưởng GDP
Theo nghiên cứu của LSE và các trường đại học khác, FDI có tác động lớn nhất đến việc nâng cấp nền kinh tế của một quốc gia, nhưng tác động tức thời của các khoản đầu tư nước ngoài mới được công bố sẽ tạo ra những công việc có thu nhập tương đối cao theo tiêu chuẩn địa phương.
Tạp chí The Economist lưu ý, việc Apple chuyển địa điểm sản xuất sang Việt Nam sẽ thúc đẩy cuộc chiến tranh giành nhân tài. Do đó, FDI công nghệ cao thúc đẩy GDP của Việt Nam theo 2 cách: Nâng cao thu nhập và nâng cao năng lực của đất nước đối với các sản phẩm phức tạp. Điều này hỗ trợ tăng trưởng GDP trong ngắn hạn, vì tiêu dùng nội địa chiếm 2/3 GDP của Việt Nam, đồng thời thúc đẩy triển vọng kinh tế dài hạn.
“Kết quả của 2 tác động này (thu nhập cao hơn và khả năng sản xuất các sản phẩm phức tạp hơn) là việc sản xuất điện thoại thông minh, thiết bị điện tử gia dụng và các sản phẩm khác có mức độ phức tạp tương đối cao, đã đóng góp hơn 1.000USD trong tổng số 3.000USD giá trị GDP bình quân đầu người của Việt Nam vào năm 2020. Các nhà máy FDI tại Việt Nam vẫn nhập khẩu hầu hết linh kiện/đầu vào sản xuất họ cần để sản xuất các sản phẩm xuất khẩu; đặc biệt đối với các sản phẩm công nghệ cao như điện tử tiêu dùng và điện thoại thông minh.
Chúng tôi kỳ vọng “hàm lượng nhập khẩu” trong sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam sẽ giảm dần và đóng góp của “hàm lượng nội địa” sẽ tăng cao, khi doanh nghiệp trong nước củng cố khả năng cung cấp đầu vào sản xuất cho các công ty FDI những năm tới” - theo Harvard.
Cuối cùng, làn sóng đầu tư FDI mới vào hoạt động sản xuất một số sản phẩm phức tạp nhất từng được sản xuất tại Việt Nam, sẽ tạo “hiệu ứng lan tỏa” khiến các nhà sản xuất trong nước phải đa dạng hóa sang các phân khúc có giá trị gia tăng cao hơn trong chuỗi giá trị.
Theo các nhà nghiên cứu sản xuất tại LSE và WB, việc lắp ráp/sản xuất thực tế các sản phẩm chế tạo chỉ chiếm khoảng 1/3 tổng giá trị kinh tế được bao hàm trong các sản phẩm đó, tức giá trị thấp nhất trong chuỗi giá trị.
Việt Nam đã đạt được bước nhảy vọt lớn nhất trong xếp hạng Chỉ số Phức tạp kinh tế (ECI) của Harvard trong 2 thập niên qua, một phần do các khoản đầu tư của Samsung và Intel đã thu hút các khoản đầu tư công nghệ cao khác từ Apple, LG Electronics, Dell và rất nhiều công ty Nhật Bản. |