
Không thể trách nhà băng
Theo số liệu thống kê của NHNN, tính đến cuối năm 2024, dư nợ tín dụng đối với khu vực KTTN đạt khoảng gần 7 triệu tỷ đồng, tăng khoảng 14,7% so với năm 2023, chiếm khoảng 44% dư nợ tín dụng nền kinh tế. Trong đó, có 100 tổ chức tín dụng phát sinh dư nợ tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), với tổng dư nợ đạt 2,74 triệu tỷ đồng, chiếm 17,6% dư nợ nền kinh tế; có gần 209.000 DNNVV còn dư nợ.
Số liệu trên cho thấy một thực tế hiện nay, các DNNVV tuy chiếm gần 98% số lượng DN, nhưng tiếp cận vốn tín dụng còn rất hạn chế, chỉ chưa đến 20% tổng dư nợ tín dụng của hệ thống NH.
Thực tế này cho thấy, việc tiếp cận tín dụng NH của các DN khu vực KTTN vẫn còn rất hạn chế. Theo các chuyên gia kinh tế, điều này cũng khó có thể “trách” các NH khi họ chỉ là trung gian tài chính, nên yêu cầu hàng đầu đối với các NH khi cấp tín dụng là phải bảo toàn vốn.
Thậm chí, Chủ tịch Hiệp hội DNNVV Việt Nam Nguyễn Văn Thân, cũng nhìn nhận, cần “thông cảm” cho các NH bởi áp lực doanh thu đối với các NH là rất lớn. Bởi các NH cũng là một DN chịu sự quản lý của NHNN. Do đó câu chuyện ở đây là vay vốn nhưng cũng cần nguồn lực để trả.
Theo thống kê và đánh giá của Bộ Tài chính, KTTN tuy đông nhưng chưa mạnh. Gần 98% DN có quy mô siêu nhỏ, nhỏ và vừa. Bên cạnh đó thì sức cạnh tranh, hiệu quả hoạt động, kỹ năng quản trị còn nhiều hạn chế. Thực trạng trên dẫn đến một trong những thách thức lớn nhất mà các DNNVV gặp phải khi vay vốn NH là thiếu tài sản đảm bảo, hồ sơ tài chính chưa minh bạch…
Ngay cả với những ý tưởng xây dựng của các định chế tài chính phi NH nhằm mục đích cho vay đối với các DNNVV cũng từng vấp phải và không thể thực hiện.
Trong kỳ họp Quốc hội vừa qua, khi dự thảo nghị quyết đề xuất thành lập quỹ phát triển DNNVV để cho vay cũng đã vấp phải nhiều ý kiến trái chiều. Thậm chí, có lãnh đạo Chính phủ nhìn nhận, việc thành lập quỹ để cho vay nói trên sẽ “thất bại ngay từ khi thiết kế”, bởi “không ai dám cho vay và cho vay cũng không thu lại được tiền”.
Gỡ khó từ đâu?
Rõ ràng, để giải quyết vấn đề này, cần thiết phải có các giải pháp đồng bộ từ cả phía NH, DN và cơ quan quản lý Nhà nước. Theo ông Nguyễn Thanh Khiết, Chủ tịch Hãng kiểm toán ASCO, các nguyên nhân chính khiến DNNVV khó tiếp cận tín dụng bao gồm thiếu tài sản đảm bảo, hồ sơ tài chính chưa minh bạch.
Do đó, ông Khiết khuyến nghị các DNNVV nâng cao năng lực quản trị, năng lực tài chính và minh bạch thông tin của DN.
Xây dựng, cải thiện hệ thống quản trị DN, áp dụng công nghệ và AI trong kế toán và quản lý tài chính, các lĩnh vực tác nghiệp khác. Đặc biệt, DNNVV cần xây dựng báo cáo tài chính minh bạch, có kiểm toán độc lập để tạo niềm tin với NH. Chủ động xây dựng kế hoạch kinh doanh đồng bộ với các kế hoạch tác nghiệp khác và phương án sử dụng vốn hiệu quả để thuyết phục NH.
Ở chiều ngược lại, các NH nên thiết kế các sản phẩm tài chính chuyên biệt như khoản vay tín chấp dựa trên dòng tiền kinh doanh, khoản vay theo hợp đồng đầu ra hoặc khoản vay dựa trên tài sản hình thành từ vốn vay. Bên cạnh đó, cần mở rộng mô hình đánh giá tín dụng dựa trên dữ liệu giao dịch thực tế của DN thay vì chỉ tập trung vào tài sản đảm bảo.
Các NH cải tiến quy trình thẩm định tín dụng theo hướng đơn giản, minh bạch và rút ngắn thời gian xử lý hồ sơ như áp dụng mô hình thẩm định tín dụng theo rủi ro, kết hợp đánh giá tín nhiệm DN bằng các tiêu chí linh hoạt, giảm bớt yêu cầu giấy tờ không cần thiết và tự động hóa một số bước xét duyệt để tăng tốc độ giải ngân.
Theo một số chuyên gia kinh tế, để gỡ khó về cơ chế tiếp cận nguồn vốn cho các DNNVV, đây cũng là thời điểm nên “tái cấu trúc” quỹ bảo lãnh tín dụng cho các DNNVV, nhất là khi Trung ương đã ban hành Nghị quyết 68.
Bởi hiện nay quỹ bảo lãnh đang thiếu cơ chế huy động vốn hiệu quả, đặc biệt là thiếu sự tham gia của các NHTM, thêm vào đó mô hình tổ chức quỹ bảo lãnh tín dụng tại các địa phương khiến các quỹ phân tán, hạn chế khả năng tập trung vốn, quy định phí bảo lãnh thiếu linh hoạt khi chỉ quy định một mức phí cố định.
Những nguyên nhân trên dẫn đến hệ quả là nguồn vốn của các quỹ bảo lãnh tín dụng luôn ở mức thấp, tổng nguồn vốn của các quỹ chỉ bằng khoảng một nửa nguồn vốn của một NHTM cấp trung.
Bên cạnh đó, thực tế cho thấy chỉ có 40% quỹ tại các địa phương là có số vốn được bố trí từ 100 tỷ đồng trở lên, còn lại số lượng lớn các quỹ có vốn thấp, có quỹ nguồn vốn chỉ đạt 4 tỷ đồng. Số lượng các quỹ giảm, một bộ phận quỹ hoạt động dưới hình thức ủy thác. Số lượng các quỹ đã giảm từ mức 27 quỹ năm 2018 xuống còn 24 quỹ vào năm 2022. Số tiền bảo lãnh và trả thay DN còn hạn chế.
Do đó, việc tái cấu trúc quỹ này nên theo hướng thành lập một mô hình quỹ bảo lãnh tín dụng tập trung phạm vi quốc gia, vùng. Việc thành lập một quỹ bảo lãnh tín dụng quốc gia sẽ tạo điều kiện hợp nhất nguồn lực theo hướng các quỹ địa phương như hệ thống chi nhánh, và có các cơ chế bổ sung nguồn lực từ các quỹ dự trữ, tái cấp vốn để tăng quy mô vốn điều lệ, giúp hệ thống quỹ hoạt động hiệu quả hơn.
Trong 20 năm (2002-2022), tổng số tiền bảo lãnh lũy kế của quỹ bảo lãnh tín dụng chỉ khoảng 4.200 tỷ đồng, tức mỗi năm trung bình số tiền bảo lãnh của các quỹ chỉ đạt khoảng 210 tỷ đồng. Tương tự, với số tiền trả nợ thay cho DN cũng phát sinh giá trị thấp với 187 tỷ đồng, mỗi năm bình quân chỉ đạt hơn 9 tỷ đồng.