Trực diện sẽ thấy nguy hại
Khi NĐTNN bán ròng và ở mức lớn, rủi ro hiện hữu đi kèm với hiện tượng này là tình trạng dòng vốn ngoại tệ đảo chiều, chảy ngược ra nước ngoài, thay vì chảy ròng vào nền kinh tế. Khi một quốc gia phải chứng kiến dòng vốn nước ngoài chảy ngược ra ở quy mô lớn và kéo dài (không phải là hiện tượng nhất thời, ngắn hạn), thì phải chuẩn bị đối mặt với những hậu quả như tỷ giá tăng (nội tệ mất giá), lạm phát tăng, ngân hàng nhận được ít tiền gửi hơn, do đó phải cắt giảm cho vay, dẫn đến làm giảm đầu tư và giảm tăng trưởng GDP thực.
Bên cạnh khả năng trả nợ nước ngoài của Chính phủ và doanh nghiệp cũng trở nên khó khăn hơn. Ở góc độ nếu nguồn thu để trả nợ phụ thuộc phần lớn vào thị trường nội địa và/hoặc bằng nội tệ, sẽ phải mất nhiều nội tệ hơn cho cùng một khoản trả nợ bằng ngoại tệ.
Nếu chỉ từ việc bán ròng của NĐTNN thì khó có thể khẳng định đã và đang có hiện tượng đảo chiều vốn nước ngoài, hoặc nghiêm trọng hơn là chảy máu ngoại tệ. |
Điều này càng làm tăng vòng xoáy chảy máu ngoại tệ, mất giá nội tệ, sụt giảm niềm tin chảy máu ngoại tệ (capital flight).
Ảnh minh họa.
Chưa đáng lo
Trở lại với trường hợp của Việt Nam. Việc NĐTNN bán ròng là một thực tế được phản ánh trên sổ sách thống kê. Tuy nhiên, chỉ từ việc bán ròng này khó có thể khẳng định rằng đã và đang có hiện tượng đảo chiều vốn nước ngoài, hoặc nghiêm trọng hơn là chảy máu ngoại tệ: Thứ nhất, theo số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch - Đầu tư), vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) đã đạt mức 1,89 tỷ USD trong quý I năm nay, tăng 121,6% so với cùng kỳ năm 2017.
Trở lại với trường hợp của Việt Nam. Việc NĐTNN bán ròng là một thực tế được phản ánh trên sổ sách thống kê. Tuy nhiên, chỉ từ việc bán ròng này khó có thể khẳng định rằng đã và đang có hiện tượng đảo chiều vốn nước ngoài, hoặc nghiêm trọng hơn là chảy máu ngoại tệ: Thứ nhất, theo số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch - Đầu tư), vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) đã đạt mức 1,89 tỷ USD trong quý I năm nay, tăng 121,6% so với cùng kỳ năm 2017.
Như vậy, nếu đã có một sự đảo chiều của vốn ngoại thì sự đảo chiều này chỉ mới diễn ra gần đây, và phải ở quy mô rất lớn, hàng tỷ USD, trung hòa toàn bộ lượng vốn FII đã đổ vào trong quý I để có thể sinh ra tình trạng đảo chiều vốn ngoại (đổ ra ròng) như dư luận đang lo ngại. Tuy nhiên, khả năng đảo chiều này cũng khó xảy ra nếu xét đến yếu tố thứ hai.
Đó là dù NĐTNN đã bán ròng (từ tháng 2), nhưng lượng vốn thu được từ việc bán ròng này không nhất thiết được chuyển hết thành ngoại tệ, và cũng không nhất thiết được chuyển ra nước ngoài. Rất có thể NĐTNN vẫn đang nắm giữ một phần vốn từ bán ròng này ở trong các tài khoản ngân hàng tại Việt Nam, bằng VNĐ (có thể chờ đợi cơ hội đầu tư mới). Bởi vậy, sự bán ròng của khối ngoại nhìn chung đã không gây ra sự đảo chiều vốn ngoại ở Việt Nam trong thời gian qua.
Tất nhiên không thể loại trừ trường hợp có một số NĐTNN đã chuyển hóa số vốn thu hồi thành ngoại tệ và chuyển ra nước ngoài. Nhưng nếu điều này diễn ra ở quy mô đáng kể nó sẽ được phản ánh ngay vào yếu tố thứ ba, đó là tỷ giá.
Thực tế, tỷ giá VNĐ/USD chỉ tăng đáng kể vào hạ tuần tháng 3 nhưng lại dịu đi sau đó, và mới chỉ “bùng lên” từ giữa tuần trước, tăng tổng cộng khoảng 90 đồng cho đến ngày 29-5. Như vậy, dù được cho là tăng mạnh, nhưng cũng chỉ ở mức 0,85% từ đầu năm đến nay.
Tỷ giá không biến động
Cũng có thể có ý kiến cho rằng tỷ giá niêm yết ở ngân hàng (và tỷ giá trung tâm của Ngân hàng Nhà nước) không phản ánh đúng tình trạng căng thẳng ngoại tệ ở Việt Nam, nên không thể căn cứ vào sự ổn định tương đối về tỷ giá trong thời gian qua để phủ nhận khả năng đã có sự đảo chiều vốn ngoại tệ.
Tỷ giá không biến động
Cũng có thể có ý kiến cho rằng tỷ giá niêm yết ở ngân hàng (và tỷ giá trung tâm của Ngân hàng Nhà nước) không phản ánh đúng tình trạng căng thẳng ngoại tệ ở Việt Nam, nên không thể căn cứ vào sự ổn định tương đối về tỷ giá trong thời gian qua để phủ nhận khả năng đã có sự đảo chiều vốn ngoại tệ.
Tuy vậy, ít nhất sự “lình xình” của tỷ giá VNĐ/USD trên thị trường tự do không quá cách biệt với tỷ giá niêm yết trong ngân hàng thương mại cũng là một hàn thử biểu cho thấy không có sự căng thẳng về cung cầu USD tại Việt Nam cho đến hiện tại (với giả thiết đã có hàng tỷ USD được NĐTNN mua và chuyển ra nước ngoài).
Và cũng sẽ có ý kiến cho rằng sự đảo chiều vốn nước ngoài từ FII đã được “che lấp” bởi sự tiếp tục đổ vào (ròng) của luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Nếu vậy, ở góc độ này Việt Nam đã tránh được hậu quả của sự chảy máu ngoại tệ.
Khả năng có sự bù đắp này cũng có thể là sự thật, nhưng lý do chủ yếu nằm ở sự khác biệt về bản chất giữa FDI và FII, khi FDI là dòng vốn có tính chất dài hạn, không biến động ngắn hạn, nhất thời như FII. Và suy cho cùng, xét trên góc độ ổn định vĩ mô, FDI hay FII không quan trọng bằng tổng thể lượng ngoại tệ đang có ở Việt Nam không bị suy giảm đi (thậm chí tăng lên) ở mọi thời điểm.