Cụ thể, đối với quy định giới hạn đầu tư nước ngoài ở mức 30% hoặc 49% vào lĩnh vực fintech, các chuyên gia cho rằng điều này không phù hợp với xu thế chung của quốc tế và gây trở ngại cho phát triển fintech.
Theo ông Varun Mittal, Phó Chủ tịch Hiệp hội Fintech Singapore, đồng thời là Trưởng Bộ phận tư vấn dịch vụ Fintech tại các thị trường mới của Ernst & Young Singapore, việc dự kiến hạn chế đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực fintech của Việt Nam đã gây quan ngại cho các nhà đầu tư ngoại cũng như trong nước do hiện nay sự phát triển của các doanh nghiệp fintech vẫn phần lớn dựa vào đầu tư nước ngoài.
Trong khi đó, ông Phùng Anh Tuấn, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký VAFI, Giám đốc Công ty Luật VCI Legal cho rằng, theo các hiệp định thương mại thế hệ mới như CPTPP hay EVFTA, Việt Nam đều đưa ra cam kết mở cửa lĩnh vực tài chính - ngân hàng với phạm vi cam kết rất rộng, bao gồm tất cả các dịch vụ thanh toán và chuyển tiền, cung cấp và chuyển giao thông tin tài chính, và xử lý dữ liệu tài chính và phần mềm liên quan bởi các nhà cung cấp các dịch vụ tài chính, tư vấn, trung gian và các dịch vụ tài chính phụ trợ khác.
Thêm vào đó, hiện nay, Chính phủ đã cho phép các ngân hàng có 100% vốn nước ngoài (chi nhánh) hoạt động và xem xét nới room cho các ngân hàng thương mại, nên không thể lấy hạn mức đầu tư trong lĩnh vực ngân hàng hiện tại (30%) để làm tiền lệ cho fintech. Đại diện VAFI kiến nghị các cơ quan xây dựng chính sách cần lưu ý để tránh vi phạm cam kết quốc tế của Việt Nam, dẫn đến hệ lụy không mong muốn như các vụ kiện đầu tư tại nước ngoài xảy ra trong thời gian qua.
Giải thích về việc thắt room đầu tư ngoại đối với fintech, đại diện Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho rằng chính sách thắt room ngoại đối với fintech nhằm ổn định và an toàn trong chính sách tiền tệ của quốc gia, tránh sự thao túng của các nhà đầu tư nước ngoài cũng như để đảm bảo chủ quyền quốc gia trong hoạt động ngân hàng tài chính, tạo điều kiện cho nhà đầu tư trong nước nắm bắt cơ hội.
Cũng theo đại diện NHNN, theo thống kê không chính thức, hiện nay Việt Nam có gần 150 doanh nghiệp fintech đang hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau, chủ yếu là lĩnh vực thanh toán, có 30 tổ chức trung gian thanh toán đã được NHNN cấp phép. Ngoài ra, còn có các lĩnh vực khác như cho vay, cung cấp giải pháp ngân hàng, xác thực điện tử, ứng dụng blockchain, dịch vụ tài chính cá nhân… cũng đang phát triển.
Đại diện NHNN nhấn mạnh, phía NHNN sẽ tạo mọi điều kiện thuận lợi về hành lang pháp lý để các doanh nghiệp nội địa đang hoạt động trong lĩnh vực fintech phát triển. Cụ thể, NHNN đang từng bước xây dựng cơ chế quản lý thử nghiệm (Regulatoiy Sandbox) cho các doanh nghiệp fintech, nghiên cứu và xây dựng khuôn khổ quản lý P2P Lending, xây dựng thông tư về giao diện lập trình ứng dụng mở (Open API), sửa đổi quy định về xác thực khách hàng điện tử (E-KYC) nhằm hướng tới mục tiêu đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam.
Cơ chế nên “thoáng” hơn ngân hàng
Nêu kiến nghị, giải pháp cho chính sách phát triển Fintech tại Việt Nam, nhiều chuyên gia cho rằng, việc tăng cường quản lý là cần thiết nhằm tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, nâng cao tính bảo mật, an toàn cho các giao dịch tài chính, bảo vệ quyền lợi cho người dùng. Thế nhưng không có nghĩa rằng, không nên vì một số trường hợp cá biệt… mà áp đặt những hạn chế, ràng buộc gây bất tiện cho số đông người dùng, làm mất đi ý nghĩa tích cực của fintech đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế số và chủ trương phổ cập thanh toán không dùng tiền mặt của Chính phủ.
Ngoài ra, fintech không có trách nhiệm và khả năng ngăn chặn vi phạm, thay vào đó, cần khuyến khích việc fintech có thể làm tốt nhất là phát hiện, theo dõi và cung cấp thông tin cho cơ quan quản lý. Cần khuyến khích sử dụng các cơ sở dữ liệu của cơ quan quản lý để thực hiện xác thực người dùng các dịch vụ fintech, cũng như cho phép người dùng đăng ký các hạn mức giao dịch “mềm” với đơn vị cung cấp dịch vụ, có thể điều chỉnh tuỳ theo nhu cầu sử dụng cũng như đánh giá an toàn của mỗi người.