Theo kết luận, qua thanh tra điển hình 6 dự án (gồm: căn hộ Felisa Riverside tại số 99 Bến Bình Đông, phường 11, quận 8; dự án tại 557 Bến Bình Đông, phường 13, quận 8; Trung tâm thương mại Bình Đăng tại Quốc lộ 50, phường 6, quận 8; dự án đầu tư xây dụng khu cao ốc văn phòng tại số 257 Điện Biên Phủ - quận 3; dự án Hạ tầng kỹ thuật Khu dân cư An Hội, Phường 14 và dự án Chung cư - Nguyễn Kim B, Quận 10) ghi nhận hầu hết đều chậm tiến độ thực hiện dự án và chậm tiến độ thi công.
Cá biệt, có một số dự án từ khi phê duyệt đến nay đã hơn 10 năm nhưng chưa được đưa vào khai thác sử dụng, ảnh hưởng đến nguồn vốn doanh nghiệp, gây lãng phí tài sản nhà nước, lãng phí đất đai và có những sai phạm, hạn chế, thiếu sót trong việc chỉ định thầu không đúng quy định, tự thực hiện các gói thầu dự án không đảm bảo năng lực thực hiện; chưa đảm bảo tính công khai, minh bạch trong quản lý dự án đầu tư xây dựng.
Về hoạt động đầu tư, góp vốn vào các doanh nghiệp khác, trong 2 năm 2017-2018, ResCo đã đầu tư tài chính tại 32 đơn vị với tổng giá trị góp vốn 2.250,4 tỷ đồng nhưng chỉ có 18/32 đơn vị có lợi nhuận, cổ tức được chia, còn lại 14/32 doanh nghiệp không được chia lợi nhuận, cổ tức. Trong đó năm 2017, có 7 đơn vị lỗ lũy kế đến 31-12-2017 là 40,66 tỷ đồng, năm 2018 còn 5 đơn vụ lỗ lũy kế đến 31-12-2018 là 23,75 tỷ đồng, khó có khả năng bảo toàn vốn.
Kết luận Thanh tra đã chỉ ra có sự tùy tiện trong việc quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp, dễ dẫn đến việc làm thất thoát, thiệt hại tài sản nhà nước. Trong 2 năm 2017-2018, doanh thu của Tổng Công ty chỉ đạt lần lượt 76,9% và 72,46% kế hoạch năm do UBND TP giao. Trong khi đó, chi phí thực hiện trong 2 năm đều vượt kế hoạch (141,34% và 158,42%).
Kết quả thanh tra cũng cho thấy Tổng Công ty chưa áp dụng các biện pháp cần thiết để thu hồi nợ và xử lý trách nhiệm các tổ chức, cá nhân có liên quan. Tại thời điểm thanh tra (ngày 20-5-2019), Tổng Công ty còn 1.473,88 tỷ đồng nợ phải thu, chưa thu hồi được, trong đó có 304,43 tỷ đồng là cổ tức, lợi nhuận được chia, tạo điều kiện cho các đơn vị khác chiếm dụng vốn. Tổng Công ty sử dụng tiền (100% vốn nhà nước) để nộp tiền thuê đất, thuế đất của CTCP Hùng Vương trên 4,8 tỷ đồng, CTCP Địa ốc 7 cho ngân sách nhà nước trên 469,56 triệu đồng.
Đặc biệt, Tổng Công ty còn chi trả các chi phí thực hiện dự án Chung cư Nguyễn Kim - Khu B thay cho đối tác kinh doanh CTCP Địa ốc Ngân Hiệp. Việc này làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng Công ty, làm lợi cho đối tác, mang tính rủi ro cao, có sự tùy tiện trong việc quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp và chưa phù hợp quy định Luật quản lý, nguồn vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh, dễ dẫn đến việc làm thất thoát, thiệt hại tài sản nhà nước.
Trong công tác quản lý sổ kế toán và chứng từ kế toán, đáng chú ý là công ty còn tồn đọng 1.533 phiếu thu trị giá 76,65 tỷ đồng (tiền cọc mua căn hộ tại chung cư lô B Bàu Cát II, quận Tân Bình) và 355 phiếu chi trị giá 54,77 tỷ đồng (hoàn trả tiền đặt cọc mua căn hộ tại chung cư lô B Bàu Cát II, quận Tân Bình), phát sinh từ ngày 15-11-2017 đến ngày 13-12-2017 không có chữ ký duyệt và đóng dấu của Thủ trưởng đơn vị.
Trong các biện pháp xử lý, Chủ tịch UBND TPHCM Nguyễn Thành Phong đã giao Chủ tịch Hội đồng thành viên và Tổng Giám đốc Tổng Công ty khẩn trương xây dựng phương án xử lý nợ phải thu, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, có biện pháp thu hổi đúng, đủ số nợ phải thu (đến thời điểm ngày 20-5-2019) là 1.691,35 tỷ đồng, đặc biệt là khoản nợ phải thu là cổ tức, lợi nhuận được chia nhưng chưa có biện pháp thu hồi.
Chủ tịch UBND TP cũng yêu cầu xem xét, xử lý trách nhiệm của tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước đầu tư vào Tổng Công ty; công tác ghi, chép, lưu trữ sổ sách kế toán. Đồng thời yêu cầu Tổng Công ty xây dựng biện pháp, giải pháp đầu tư nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư, góp vốn vào các doanh nghiệp; xây dựng phương án tái cơ cấu hoặc thoái vốn tại 14/32 doanh nghiệp đầu tư không có lợi nhuận, cổ tức đuợc chia và bị lỗ. Thực hiện và hoàn tất việc thoái hết vốn đầu tư tài chính ngoài ngành, không làm thiệt hại cho nhà nước (trước thời điểm cổ phần hóa công ty) theo quy định…