Hiện có nhiều chỉ số tổng hợp cơ bản đo lường sức khỏe của một nền kinh tế, thông thường chúng ta dựa theo Hệ thống các tài khoản quốc gia (SNA) của Liên hiệp quốc, nhưng chỉ số này bao gồm tổng sản phẩm trong nước (GDP), thu nhập quốc gia (GNI), thu nhập quốc gia khả dụng (GNDI) và tiết kiệm (saving).
GDP chỉ là chỉ tiêu phản ánh sự khởi tạo thu nhập lần đầu và là chỉ tiêu cân đối tài khoản sản xuất. Như vậy việc coi GDP như chỉ tiêu duy nhất để đánh giá tình trạng của nền kinh tế là không thỏa đáng, đôi khi là nhầm lẫn. Trong nhiều trường hợp GDP tăng nhưng tài sản của quốc gia lại mất, nguồn lực đất nước nhỏ lại.
Đầu tiên là việc đầu tư không hiệu quả (đầu tư quá mức và đầu tư không cần thiết) như đào đường lấp đường vào những dịp cuối năm, xây tượng đài, cổng chào, xây dựng những công trình mà không sử dụng… có thể làm tăng GDP ngay tại thời điểm đó, nhưng sẽ gây nên những rủi ro về lạm phát và nợ nần do mức tổng tiết kiệm quốc gia (GNS) thiếu hụt so với lượng đầu tư.
Đối với doanh nghiệp nhà nước tỷ lệ giữa nợ phải trả so với nguồn vốn chủ sở hữu tăng từ 3,1/1 giai đoạn 2011-2015 lên 4/1 giai đoạn 2016-2018. Nợ công tăng mạnh qua từng năm, khi năm 2020 dự kiến vượt 3,63 triệu tỷ đồng và nghĩa vụ Chính phủ phải trả nợ cả gốc lẫn lãi trên 360.000 tỷ đồng.
Như vậy, với dân số khoảng 97,5 triệu người, trung bình mỗi người dân “gánh” khoảng 37 triệu đồng nợ công. Sang năm 2021 nợ công theo dự toán lên đến 4 triệu tỷ đồng, bình quân mỗi người “gánh” 40 triệu đồng nợ công.
Đã vậy, khoảng cách giữa tiết kiệm quốc gia với đầu tư và tích lũy tài sản ngày càng lớn. Từ năm 2015-2019 tỷ lệ tiết kiệm quốc gia nhỏ hơn tỷ lệ đầu tư và tích lũy so với GDP (hình 1), điều này thực sự là cảnh báo, thay vì vui mừng với GDP tăng trưởng.
Hình 1. Tỷ lệ tiết kiệm Quốc gia, tích lũy và đầu tư so với GDP. Nguồn: https://www.adb.org/publications/key-indicators-asia-and-pacific-2020.
Thứ hai, tăng trưởng GDP dựa vào đầu tư nước ngoài (FDI), về nguyên tắc tính toán GDP thường trú, tức toàn bộ giá trị tăng thêm của khu vực FDI được tính vào GDP của quốc gia. Như vậy khu vực FDI có thể làm GDP tăng trưởng, nhưng luồng tiền ra khỏi đất nước cũng tăng lên.
GDP theo giá hiện hành năm 2019 tăng so với năm 2000 theo số liệu của Tổng cục Thống kê tăng 13,7 lần, luồng tiền đi ra nước ngoài năm 2019 so với 2000 tăng 55,3 lần; GDP giá hiện hành năm 2019 so với 2010 tăng 2,8 lần, và tốc độ tăng luồng tiền ra tương ứng 4,3 lần.
Tức tốc độ tăng luồng tiền chảy ra nước ngoài cao hơn tăng về GDP 1,5 lần, dẫn đến tỷ lệ GNI so với GDP ngày càng giảm. Năm 2000 tỷ lệ GNI so với GDP 98,6%, năm 2019 tỷ lệ này giảm uống 94% (hình 2).
Hình 2. Tỷ lệ tổng thu nhập quốc gia so với tổng sản phẩm trong nước (**) (%). Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam gso.gov.vn và ADB https://www.adb.org/publications/key-indicators-asia-and-pacific-2020.
Điều nữa cần chú ý, tỷ lệ cung tiền so với GDP (M2/GDP) từ năm 2016 đến nay rất cao: 2016 là 158,3%, 2019 là 175,1% và đến 21-12-2020 khoảng 189% (hình 3), trong khi chỉ số giá tiêu dùng (CPI) không tăng đáng kể. Như vậy luồng tiền chạy đi đâu trong nền kinh tế? Có thể lý giải luồng tiền đi vào bất động sản và chứng khoán?
Điều này có thể dẫn đến những rủi ro cho những năm tiếp theo, nếu giá trị bất động sản bị thổi phồng không đúng với giá trị thật và chứng khoán chỉ là kênh đầu cơ chưa hoàn toàn là kênh phân bổ vốn.
Hình 3. M2 (% GDP theo giá hiện hành). Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam gso.gov.vn và ADB https://www.adb.org/publications/key-indicators-asia-and-pacific-2020.
Cũng có thể M2 tăng cao không gây tăng giá tiêu dùng do khu vực kinh tế chưa được quan sát (bao gồm khu vực kinh tế ngầm, kinh tế bất hợp pháp, khu vực kinh tế chưa định hình, khu vực kinh tế tự sản tự tiêu của hộ gia đình và các hoạt động chưa được cơ quan thống kê quan sát khác) trong giai đoạn này rất lớn chưa được tính vào GDP, khiến tỷ lệ cung tiền so với GDP chính thức tăng cao.
Có thể thấy, sự vui buồn và điều hành nền kinh tế chỉ nhìn vào tăng trưởng GDP là chưa thỏa đáng. Đặc biệt việc đánh đồng tăng trưởng kinh tế với tăng trường GDP trong việc đưa ra các chính sách có thể dẫn đến lệch lạc.
Bởi lẽ, trong nội hàm của chỉ tiêu này có nhiều bất cập trong phản ảnh thực trạng của nền kinh tế. GDP có thể được mang ra trong so sánh với nước này nước nọ và chỉ nên xem nó như chỉ tiêu mang tính tham khảo.