Trong số này có 15 doanh nghiệp muốn mở thêm nhà máy tại Việt Nam. Theo vị đại diện JETRO, từ tháng 2, dịch Covid-19 đã lan rộng ở Trung Quốc sau đó sang Nhật Bản, Hàn Quốc, các nước châu Âu, Mỹ rồi lan rộng toàn cầu. Do dịch bệnh, chuỗi cung ứng linh phụ kiện bị “đứt gãy”, gây tác động đến nhiều lĩnh vực sản xuất ô tô, điện thoại di động, máy móc…
Nhiều doanh nghiệp Nhật Bản rơi vào cảnh thiếu linh kiện, không thể hoàn thiện sản phẩm. Trong bối cảnh đó, Chính phủ Nhật Bản có chương trình khuyến khích các doanh nghiệp đa dạng hóa chuỗi cung ứng, để không bị phụ thuộc vào một thị trường. Mức hỗ trợ tối đa mỗi doanh nghiệp có thể nhận được là 5 tỷ yen (1.100 tỷ đồng).
Ông Takeo Nakajima cũng nói rõ, các doanh nghiệp Nhật Bản đa dạng hóa chuỗi cung ứng chứ không phải dịch chuyển hoàn toàn nhà máy từ nước này sang nước khác. “Một loại linh kiện trước đây đã sản xuất ở Trung Quốc, nay muốn sản xuất linh kiện đó ở Việt Nam thì sẽ đáp ứng được yêu cầu của chương trình hỗ trợ. Nhưng nếu doanh nghiệp đã sản xuất linh kiện tại Đài Loan, giờ muốn tăng sản lượng lên gấp đôi tại nhà máy ở Đài Loan, thì không được hỗ trợ”. Vẫn theo Trưởng đại diện JETRO, thực tế đã có 15/30 doanh nghiệp thuộc diện được hỗ trợ kinh phí đa dạng chuỗi cung ứng đã chọn Việt Nam là điểm đến.
Lý giải vì sao Việt Nam có sức thu hút mạnh mẽ đối với doanh nghiệp Nhật Bản, ông Takeo Nakajima nói, tâm huyết của Chính phủ Việt Nam trong thu hút đầu tư từ Nhật Bản được đánh giá là điểm mấu chốt. Việt Nam còn có một lợi thế khác mà không bất cứ quốc gia nào trong khu vực có được, đó là đội ngũ đông đảo người lao động biết tiếng Nhật (mặc dù Malaysia hay Philippines nổi trội về số người biết tiếng Anh nhiều hơn).
Bên cạnh đó, dân số 95 triệu người với mức sống đang ngày càng được cải thiện sẽ nhanh chóng biến Việt Nam trở thành thị trường hấp dẫn. Như thế, ngoài việc xuất khẩu, các hàng hóa Nhật Bản sản xuất ở Việt Nam trong quá trình mở rộng chuỗi cung ứng cũng sẽ phục vụ chính thị trường Việt Nam.
Tuy nhiên, Trưởng đại diện JETRO cũng lưu ý thêm, trong các nước ASEAN, Malaysia, Singapore, Thái Lan thuộc nhóm chi phí cao. Indonesia cũng đang ở mức ngấp nghé. Việt Nam dù còn trong nhóm chi phí thấp nhưng tiền nhân công, thuê mặt bằng ở Việt Nam cũng đang tăng lên từng năm. Lợi thế chi phí giá rẻ sẽ sớm biến mất, Việt Nam cần tạo cho mình những lợi thế khác. Tỷ lệ nội địa hóa thấp và ngành công nghiệp phụ trợ kém phát triển ở Việt Nam cũng là vấn đề cần sớm cải thiện.
Việc hai quốc gia chưa thể nối lại các chuyến bay thương mại vì Covid-19 gây tác động tới tiến trình đầu tư, nhất là khi một số doanh nghiệp chọn Việt Nam làm điểm đến đã bắt tay vào thực hiện kế hoạch đa dạng hóa chuỗi cung ứng… Mặc dù vậy, đại diện JETRO cho biết, về tổng thể, đây cũng là vấn đề các doanh nghiệp Nhật Bản đều gặp phải ở nhiều quốc gia và chưa quá nghiêm trọng.