Phóng viên: - Ông có thể nói rõ hơn việc TPHCM đang triển khai xây dựng trung tâm tài chính quốc tế sẽ có ý nghĩa như thế nào, và cần lưu ý những điểm gì?
TS. CẤN VĂN LỰC: - Như tôi đã nói từ nhiều lần trước đó, sẽ có 3 vấn đề chúng ta cần hết sức lưu ý khi xây dựng trung tâm tài chính quốc tế và khu vực tại Việt Nam.
Thứ nhất, chính sách có cho phép tự do hoá tài khoản vốn, tức cho phép dòng tiền vốn vào ra Việt Nam một cách thoải mái. Chính sách này có 2 mặt lợi ích và hạn chế. Về lợi ích, chính sách này giúp thu hút nguồn vốn từ nước ngoài thuận lợi và phát triển thị trường vốn trong nước và đổi mới sáng tạo.
Tuy nhiên, đi kèm rủi ro như nhà đầu tư rút vốn ồ ạt, bất thường khi có sự cố xảy ra. Lúc này, chúng ta cần đặt bài toán kiểm soát rủi ro như thế nào, tránh đổ vỡ như từng xảy ra với nhiều nước châu Mỹ, Hàn Quốc, Thái Lan giai đoạn 1997-1998.
Thứ hai, cần lưu tâm liên quan đến đồng tiền của VNĐ. Thực tế VNĐ tương đối yếu nên chuyển đổi đồng tiền khác tương đối khó khăn. Muốn tăng khả năng chuyển đổi của VNĐ cần thông qua môi trường pháp lý, sức mạnh của nền kinh tế, sự ổn định nền kinh tế.
Thứ ba, đó là liên quan cách thức, phương thức giao dịch tài chính hiện nay. Nếu chúng ta đang xây dựng tòa nhà TPHCM, và sắp tới sẽ xây ở Đà Nẵng để thu hút tổ chức tài chính, tổ chức phụ trợ. Nhưng bên cạnh đó cũng cần tập trung đầu tư hạ tầng số như dữ liệu, công nghệ thông tin, khung pháp lý để giao dịch tài chính của Việt Nam và quốc tế tốt hơn.
Nếu cách đây 20 năm, phải giao dịch tài chính ở trung tâm tài chính tập trung, toà nhà, cao ốc, thì hiện nay với thời đại công nghệ, chủ yếu giao dịch tài chính phương thức điện tử, phương thức số. Việt Nam cần kiến tạo để những giao dịch này được thuận lợi, chi phí thấp, an toàn, hiệu quả, thay vì xây dựng tòa cao ốc và mời nhà đầu tư, chưa chắc họ đã tới vì tiết giảm chi phí, đầu tư qua môi trường số.
Việc xây dựng mô hình thử nghiệm cho ngân hàng số 100%, cơ chế thử nghiệm fintech đang xây dựng thí điểm một số nơi như TPHCM, Đà Nẵng, cũng là một xu hướng.
Việc xây dựng trung tâm tài chính quốc tế TPHCM cần hướng đến 4 mục tiêu chính: thúc đẩy phát triển kinh tế TPHCM và vùng lân cận; huy động và phân bổ hiệu quả các nguồn lực tài chính; nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ tài chính truyền thống, đồng thời phát triển dịch vụ mới; và cuối cùng là góp phần hoàn thiện thể chế. Nếu đạt được các mục tiêu này, đây là sẽ động lực quan trọng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của TPHCM.
- Ông đánh giá thế nào về tăng trưởng kinh tế cả nước 9 tháng đầu năm, những thách thức trong những tháng còn lại? Sự đóng góp của TPHCM sẽ có ý nghĩa như thế nào đối với tăng trưởng kinh tế chung của cả nước?
- Tôi cho rằng kinh tế Việt Nam trong quý III và 9 tháng đầu năm 2025 đạt nhiều kết quả tích cực. Đảng và Nhà nước tiếp tục hoàn thiện thể chế, thực hiện các chính sách chiến lược, thúc đẩy các động lực tăng trưởng, quyết tâm đạt mục tiêu tăng trưởng 8% trở lên gắn với ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế.
GDP 9 tháng tăng trưởng cao nhất so với cùng kỳ trong vòng 14 năm; kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, các cân đối lớn được bảo đảm. Đáng chú ý, GDP 9 tháng tăng 7,85% so với cùng kỳ năm trước, với sự phục hồi của các động lực cả phía cung lẫn cầu và đà tăng trưởng tích cực 2 con số của nhiều đầu tàu kinh tế.
Nhưng bên cạnh đó, vẫn có những thách thức hiện hữu. Ở phương diện khách quan, đó là rủi ro địa chính trị và căng thẳng thương mại; nhiều nền kinh tế lớn (Mỹ, Trung Quốc, EU…) tăng trưởng chậm lại do thuế quan, tác động đến xuất khẩu, đầu tư FDI và lạm phát; lãi suất dù giảm nhưng còn ở mức cao, neo lâu, khiến đà phục hồi khó khăn hơn nhiều, rủi ro nợ công và tư còn cao.
Ở phương diện chủ quan, ở trong nước tỷ giá, nợ xấu tăng dù trong tầm kiểm soát; cán cân thương mại chưa bền vững; thị trường bất động sản phục hồi nhưng thiếu bền vững.
Bên cạnh đó, quá trình vận hành mô hình chính quyền địa phương 2 cấp còn nhiều vướng mắc; giải ngân đầu tư công không đồng đều; hệ quả trực tiếp khiến cho một số địa phương đạt mức tăng trưởng GRDP 9 tháng thấp hơn kế hoạch hoặc thấp hơn trung bình cả nước, trong đó có TPHCM chỉ đạt mức 7,07%.
Tuy vậy, tôi cho rằng động lực và dư địa dành cho tăng trưởng kinh tế từ nay đến cuối năm vẫn còn nhiều. Thậm chí, ngay cả khi đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế từ 9 đến 10%, đầu tư toàn xã hội không nhất thiết phải bằng 40% GDP. Bởi đây là mô hình cũ rồi, hiện nay phải hiệu quả hơn, ít vốn nhưng tăng trưởng cao.
Tôi cho rằng có thể giảm tỷ lệ này xuống tầm 37% GDP, nếu tăng được năng suất lao động và sử dụng vốn hiệu quả, chúng ta có thể đạt được tăng trưởng như mong muốn. Hiện nay tăng trưởng của Việt Nam vẫn dựa nhiều vào vốn (chiếm khoảng 49-50%), trong khi năng suất lao động đóng góp khoảng 5% và yếu tố năng suất tổng hợp (TFP) đóng góp 45%.
Để chuyển sang mô hình tăng trưởng bền vững và hiệu quả hơn, Việt Nam cần nâng tốc độ tăng năng suất lao động lên ít nhất từ 6,5 đến 7%/năm trong giai đoạn 2026-2030, tương đương mức tăng của Đài Loan thời kỳ bứt phá; tăng tỷ trọng đóng góp của TFP từ 45% hiện tại lên 55-60% đến năm 2045.
Việc đổi mới mô hình tăng trưởng không thể tiếp tục “tuần tự tiến lên” như trước kia. Thay vì đi theo lộ trình 3I (đầu tư - nhập công nghệ - đổi mới sáng tạo) một cách tách rời, Việt Nam cần thực hiện 3I ngay từ bây giờ.
Lý do vì sao? Vì nếu chậm, Việt Nam sẽ tiếp tục lỡ cơ hội trong cuộc đua tăng trưởng. 3I đồng thời là mô hình phù hợp hơn trong bối cảnh AI, chuyển đổi số và cạnh tranh toàn cầu đang ngày một gay gắt.
Ở khía cạnh này, tôi tin rằng TPHCM là địa phương hoàn toàn phù hợp cho việc thí điểm và áp dụng quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế mới này, khi đang sở hữu rất nhiều lợi thế như về nhân lực, tài lực, vật lực, được hưởng cơ chế chính sách đặc thù, nghĩa là đảm bảo cả điều kiện cần và đủ.
- Xin trân trọng cảm ơn ông.