TS Phan Hữu Thắng: Doanh nghiệp cần có tầm nhìn dài hạn khi đầu tư ra nước ngoài

(ĐTTCO) - Do “sức khỏe” nền kinh tế có hạn và kinh nghiệm đầu tư ra nước ngoài đang dần được tích lũy, nên chúng ta phải đi từng bước phù hợp với trình độ và điều kiện phát triển của nền kinh tế Việt Nam.

Trao đổi với ĐTTC, TS. PHAN HỮU THẮNG, Chủ tịch HĐTV Viện nghiên cứu Đầu tư quốc tế, nguyên Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), cho rằng cần một tầm nhìn dài hạn về đầu tư quốc tế, từ đó mới định hướng rõ hơn để dẫn lối cho các nhà đầu tư Việt Nam vươn ra biển lớn thành công.

PHÓNG VIÊN: - Theo quan sát của chúng tôi nhiều năm qua, trong các báo cáo về đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài rất ngắn gọn, không có báo cáo phân tích sâu cũng như đánh giá về đầu tư ra nước ngoài. Vì sao thưa ông?

TS. PHAN HỮU THẮNG: - Kể từ ngày 14-9-1999 - ngày Nghị định 22/1999/NĐ-CP đầu tiên của Chính phủ về đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp (DN) Việt Nam được ban hành đến nay đã 24 năm. Trong 24 năm ấy, đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam tựa như một bức tranh chưa hoàn chỉnh. Chưa hoàn chỉnh bởi ngoài số liệu về các dự án, vốn đầu tư, lĩnh vực và quốc gia nhận đầu tư, thì vẫn thiếu các đánh giá cụ thể về kết quả doanh thu, thực trạng tài chính, thu nộp ngân sách… Những thành tựu, khó khăn, tồn tại cũng như nguyên nhân của thất bại và thành công chưa được làm rõ. Thiếu như thế nên các cơ quan nghiên cứu chuyên sâu về đầu tư khó có thể đánh giá được đầy đủ và toàn diện thực trạng đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam đến thời điểm hiện nay.

- Là người chứng kiến từ ngày giấy phép đầu tư đầu tiên ở nước ngoài của Việt Nam được cấp, cùng với một quá trình theo dõi và nghiên cứu liên tục đến nay, ông đánh giá về đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam như thế nào?

- Thực tế cho thấy, đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam có cả thành công và thất bại, vì đây là một quá trình phát triển hoàn toàn mới mẻ đối với các DN Việt.

- Về thành công, trước hết nói về số lượng. Theo báo cáo mới nhất của Bộ KH-ĐT, lũy kế đến 20-5, Việt Nam đã có 1.648 dự án đầu tư ra nước ngoài còn hiệu lực, với tổng vốn đầu tư gần 22,1 tỷ USD. Các nhà đầu tư Việt Nam đã đi vào gần 20 ngành nghề và đầu tư ở hơn 25 quốc gia và vùng lãnh thổ. Trong đó có thị trường rất mới như Tây Ban Nha và thị trường lớn như Mỹ…

Trong 5 tháng đầu năm 2023, tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài cấp mới và điều chỉnh đạt gần 316,4 triệu USD. Trong đó có 47 dự án được cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư mới, với tổng vốn đăng ký đạt hơn 142,7 triệu USD; 16 lượt dự án điều chỉnh với tổng vốn đầu tư tăng thêm gần 173,7 triệu USD.

Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Về hiệu quả, khách sạn MELIA tại Myanmar do Tập đoàn Hoàng Anh - Gia Lai đầu tư ban đầu được coi như một biểu tượng thành công của đầu tư Việt Nam tại đây. Cũng có những DN mang được lợi nhuận về nước, đã xây dựng được thương hiệu ở nước ngoài như Viettel. Nhưng cũng có dự án thất bại, DN phải giải thể về nước. Có những dự án phải tạm dừng hoạt động nhiều năm, chờ đợi sự phục hồi khởi sắc trở lại của môi trường đầu tư - kinh doanh ở đất nước này.

- Vậy qua 24 năm, theo ông làm sao để giảm thiểu thất bại khi đầu tư ở nước ngoài?

- Ở những năm đầu tiên đầu tư ra nước ngoài, do các DN tư nhân Việt Nam còn nhỏ yếu, nên chủ yếu là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước với các dự án có quy mô vốn lớn (như Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, Tập đoàn Viettel, Tập đoàn Cao su Việt Nam, Tổng công ty Sông Đà…).

Đến những năm sau đó và gần đây, nhiều DN tư nhân Việt Nam đã mở rộng đầu tư sang nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có những DN có thương hiệu trong khu vực và được thế giới biết đến như Tập đoàn FPT, Tập đoàn Hoàng Anh - Gia Lai, CTCP Golf Long Thành (Tập đoàn KN), Vinamilk, NutiFood, An Phát …

Để giảm thiểu thất bại, nhân lên thành công cần làm rõ nguyên nhân, có nghiên cứu, đánh giá, phân tích thực trạng đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam trên bình diện tổng thể và quốc gia nhận đầu tư. Từ đây phân tích sâu hệ thống pháp luật, chính sách của các nước tiếp nhận đầu tư, cũng như hệ thống pháp luật, chính sách của Việt Nam về đầu tư ra nước ngoài, về thông lệ đầu tư quốc tế…

Tóm lại, đó là cần một tầm nhìn dài hạn về đầu tư quốc tế. Bên cạnh đó là xây dựng hình ảnh một nước Việt Nam phát triển, yêu chuộng hòa bình, thân thiện, có tiềm lực về kinh tế, công nghệ và văn hóa cao tại các nước, vùng lãnh thổ nơi Việt Nam đến đầu tư.

Trong 24 năm qua, do “sức khỏe” nền kinh tế có hạn và kinh nghiệm đầu tư ra nước ngoài đang dần được tích lũy, nên chúng ta phải đi từng bước phù hợp với trình độ và điều kiện phát triển của nền kinh tế Việt Nam, cũng như mối quan hệ quốc tế và vị thế của Việt Nam trên thế giới ở từng giai đoạn. Tuy nhiên, trong sự cẩn trọng đó còn có nguyên nhân do hệ thống các văn bản pháp luật về đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài chưa hoàn thiện, thiếu định hướng cụ thể. Năng lực đầu tư của DN Việt chưa cao… Đây là những điều khó tránh khỏi.

Song cần lưu ý rằng, khuyến khích các DN Việt đẩy mạnh đầu tư ra nước ngoài là tăng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, trực tiếp tiếp thu kinh nghiệm quản lý và công nghệ tiên tiến của nước ngoài.

Đồng thời thúc đẩy thương mại, liên kết DN - DN, mở rộng quan hệ cộng đồng, ngoại giao nhân dân. Từ đó góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung, đồng thời tích cực góp phần xây dựng một thế giới hội nhập, bình đẳng, hòa bình, thịnh vượng trên cơ sở gắn kết lợi ích kinh tế giữa các quốc gia, giữa DN và người dân trên toàn cầu…

- Xin cảm ơn ông.

Ngày 31-5, Viện Nghiên cứu đầu tư quốc tế và Hội Hữu nghị Việt Nam - Myanmar công bố “Báo cáo đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam tại Myanmar”, do TS. Phan Hữu Thắng làm Chủ tịch Hội đồng biên soạn.

Báo cáo gồm 4 chương gồm: Phân tích, đánh giá hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các nước trên thế giới; Tình hình đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài; Đầu tư của Việt Nam tại Myanmar: Xu hướng và triển vọng; định hướng và giải pháp thúc đẩy đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài giai đoạn tới.

Các tin khác