Tác động đến Việt Nam
Dự kiến từ đầu năm 2024, một số quốc gia sẽ áp dụng thuế suất tối thiểu toàn cầu. Theo đó, nếu đủ điều kiện nhưng mức thuế thấp hơn 15% ở quốc gia họ đầu tư, các doanh nghiệp (DN) này sẽ phải nộp phần "thiếu hụt" còn lại so với mức thuế 15% cho quốc gia nơi họ có trụ sở chính.
Chính sách thuế này dự kiến có tác động đến hoạt động đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài (FDI) ở nhiều quốc gia, nhưng mức độ tác động đến các quốc gia khác nhau, tùy vào mức độ ưu đãi thông qua biện pháp giảm thuế suất, khấu trừ thuế đến đâu và quy mô doanh thu hợp nhất toàn cầu. Chính sách thuế này được đánh giá có tác động tích cực (tăng thu thuế cho quốc gia) và cả tác động tiêu cực (thu hút FDI).
Với Việt Nam, tác động chính sách thuế này đến thu hút đầu tư FDI là có. Hiện nay, ưu đãi thuế của Việt Nam cho đầu tư gồm ưu đãi thời gian miễn, giảm thuế đối với đầu tư mới, đầu tư mở rộng (miễn 4 năm, giảm 9 năm; miễn 2 năm, giảm 4 năm). Một số tính toán cho thấy, trong khi thuế suất phổ thông 20%, thuế thực tế với các DN FDI trong kỳ ưu đãi trung bình 12,3%, trong đó một số tập đoàn lớn chỉ ở mức vài %.
Khi thuế suất tối thiểu toàn cầu được áp dụng, có thể một số tập đoàn lớn sẽ phải nộp thêm phần thuế bổ sung ở nước khác, nơi họ có trụ sở chính. Như vậy, lợi ích trước đây là phần ưu đãi thuế họ được hưởng nay sẽ không còn hoặc giảm đáng kể. Hiệu lực và tính hấp dẫn chính sách ưu đãi đầu tư sẽ bị giảm trong nhiều trường hợp.
Chính sách thuế này khi được áp dụng sẽ tác động trước hết đến DN FDI đầu tư lớn, đến thu hút mới các dự án đầu tư. Đặc biệt tác động cả đến dự án FDI đã và đang hoạt động tại nước ta trong thời kỳ hưởng chính sách ưu đãi, đồng thời có thể ảnh hưởng đến quyết định mở rộng đầu tư của nhà đầu tư đang hoạt động.
Tuy chịu ảnh hưởng chủ yếu là những nhà đầu tư lớn, có quy mô doanh thu hợp nhất trên 750 triệu EUR toàn cầu, nhưng ở chừng mực nào đó rất có thể những nhà đầu tư FDI nhỏ nhưng là một phần trong hoạt động kinh doanh của một tập đoàn đa quốc gia, nên họ có thể bị liên đới chịu thuế suất thuế tối thiểu.
Chính sách thuế này đã tác động đến thu hút FDI ở nước ta ngay từ bây giờ, chứ không phải chờ đến khi nó được các nước áp dụng. Bởi ngay từ giờ các nhà đầu tư đã tính toán đến việc thực thi chính sách thuế này để quyết định đầu tư ở đâu trong năm nay và năm tiếp theo.
Hạn chế tác động, tận dụng cơ hội
Như vậy, giải pháp nào để hạn chế tác động bất lợi và tận dụng cơ hội của chính sách thuế suất tối thiểu toàn cầu này? Trước hết, về cơ hội, các quốc gia được khuyên nên áp dụng chính sách thuế này để tăng thu quốc gia, và tránh việc ưu đãi của mình bị mang sang nộp ở quốc gia khác.
Còn về giải pháp thay thế, theo tôi cả về trước mắt, lâu dài và quan trọng nhất là cách thu hút đầu tư bằng môi trường kinh doanh thuận lợi; chi phí gánh nặng về thủ tục hành chính, tuân thủ pháp luật được giảm bớt, minh bạch hơn, nhanh hơn và ít rủi ro, tức môi trường đầu tư kinh doanh hấp dẫn.
Như vậy, Chính phủ cần đẩy mạnh cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, coi đây là biện pháp thu hút đầu tư quan trọng, hiệu quả nhất để ứng phó với thách thức từ chính sách thuế này.
Ngoài ra, cần lưu ý, những biện pháp ưu đãi vẫn có thể tác dụng đối với nhiều nhà đầu tư, đặc biệt là vừa, nhỏ. Trường hợp cần thiết tìm kiếm chính sách ưu đãi thay thế cần cân nhắc các chính sách ưu đãi về khấu trừ chi phí - có thể đạt được mục tiêu kép - vừa hạn chế được tác động của chính sách thuế suất tối thiểu toàn cầu, vừa giúp thu hút đầu tư có chọn lọc.
Thí dụ, thay vì giảm thuế suất hoặc miễn thuế, có thể cho phép DN khấu trừ nhiều hơn 100% (150% chẳng hạn) chi phí họ đầu tư vào các hoạt động quan trọng như nghiên cứu phát triển, đào tạo lao động, thuê nhân sự có chất lượng cao... Chính sách này vẫn tạo được tác động ưu đãi, vừa đạt mục tiêu nâng cao chất lượng đầu tư vào hoạt động nước chủ nhà mong muốn.
Các giải pháp ứng phó cần chú ý đến cả giải pháp thu hút FDI mới, FDI mở rộng đầu tư; đồng thời cần tính đến giải pháp cho các nhà đầu tư đã đầu tư, đang hoạt động trong thời kỳ hưởng ưu đãi. Đặc biệt, Việt Nam cần nhanh chóng đánh giá để xác định mức độ bị tác động, bao gồm cả cơ hội và tác động tiêu cực.
Cần nhanh chóng rà soát toàn bộ quy định hiện hành về chính sách ưu đãi, từ đó xác định chính xác phạm vi và mức độ bị tác động theo ngành, lĩnh vực, đối tượng, tác động tích cực, tiêu cực, cơ hội, thách thức. Chỉ khi chúng ta xác định đầy đủ bức tranh tác động mới có thể có giải pháp phù hợp.
Thách thức lớn nhất lúc này là áp lực thời gian. Thực tiễn cho thấy, để tận dụng cơ hội hay hóa giải thách thức có thể cần hành động chính sách, sửa đổi nội luật… đòi hỏi cần thời gian để làm việc này. Chúng ta chỉ có khoảng 10 tháng quý giá để hành động, tận dụng cơ hội, giữ quyền đánh thuế, tăng thu ngân sách nhà nước vừa đảm bảo chủ trương thu hút đầu tư.
Trong việc này, Chính phủ không thể làm một mình mà phải có sự đối thoại, hợp tác, tham vấn với cộng đồng DN, thậm chí cả hợp tác quốc tế giữa các quốc gia.