Theo đó, Quốc hội quyết định tổng nguồn vốn ngân sách nhà nước bố trí cho chương trình giai đoạn 2026-2030 là khoảng 423.000 tỷ đồng. Trong đó, nguồn vốn ngân sách trung ương: 100.000 tỷ đồng; nguồn vốn ngân sách địa phương 300.000 tỷ đồng; nguồn vốn tín dụng chính sách (nguồn ngân sách nhà nước) là 23.000 tỷ đồng.
Trong quá trình điều hành, Chính phủ tiếp tục cân đối nguồn vốn ngân sách trung ương, bao gồm cả nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội, để ưu tiên hỗ trợ thêm cho chương trình phù hợp với điều kiện thực tế.
Quang cảnh phiên họp. Ảnh: QUANG PHÚC
Dự thảo đã tiếp thu và quyết định chuyển nguồn vốn giai đoạn 2021-2025 sang 2026 để thực hiện. Theo đó, để giải quyết vấn đề giải ngân và đảm bảo nguồn lực liền mạch giữa 2 giai đoạn, Chính phủ đã bổ sung cơ chế đặc thù trong dự thảo Nghị quyết. Cụ thể, kéo dài thời gian giải ngân đối với vốn ngân sách nhà nước năm 2025 (bao gồm cả vốn từ các năm 2021-2024 đã chuyển nguồn sang 2025) của cả 3 chương trình mục tiêu quốc gia nếu chưa giải ngân hết, sẽ được phép kéo dài thời gian thực hiện và giải ngân đến hết ngày 31-12-2026.
Cùng với đó, chương trình sẽ linh hoạt điều chỉnh vốn. Theo đó, các bộ, ngành và địa phương được quyền quyết định điều chỉnh kinh phí từ các hoạt động đã hết nhiệm vụ chi sang các hoạt động khác, miễn là không vượt tổng mức và không thay đổi cơ cấu chi đầu tư/chi thường xuyên đã giao.
Trường hợp không còn nhiệm vụ dở dang của giai đoạn 2021-2025, nguồn vốn còn lại được phép sử dụng để thực hiện các nhiệm vụ, dự án thuộc chương trình mục tiêu quốc gia, giai đoạn 2026-2035.
Các đại biểu quốc hội sáng 11-12. Ảnh: QUANG PHÚC
Về quy định vốn đối ứng, trước đó, khi thảo luận tại tổ và hội trường, nhiều đại biểu cho rằng, mức vốn đối ứng ở địa phương 400.000 tỷ đồng là quá cao, khó thực hiện. Dự thảo được Quốc hội biểu quyết thông qua đã giao Thủ tướng Chính phủ quy định mức vốn đối ứng từ ngân sách địa phương phù hợp với khả năng cân đối của từng tỉnh, thành phố, đặc biệt ưu đãi cho các địa phương khó khăn.
Dự thảo vừa được Quốc hội thông qua sẽ đẩy mạnh phân cấp và cơ chế đặc thù trong thực hiện chương trình. Theo đó, Chính phủ cam kết ban hành các cơ chế "đột phá" để tháo gỡ khó khăn trong thực tiễn.
Trong quản lý tài sản, sẽ giao Chính phủ quy định cơ chế quản lý, sử dụng tài sản hình thành trong dự án hỗ trợ phát triển sản xuất. Đồng thời, cho phép chủ dự án phát triển sản xuất được quyền tự mua sắm hàng hóa. Đối với các công trình xây dựng quy mô nhỏ, kỹ thuật đơn giản, sẽ giao cho cộng đồng dân cư và tổ chức tại cơ sở thực hiện.
Mục tiêu của chương trình
Xây dựng nông thôn mới hiện đại, giàu đẹp, bản sắc, bền vững, gắn với đô thị và thích ứng biến đổi khí hậu. Phát triển toàn diện vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi. Thực hiện giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững, bảo đảm bình đẳng giới và an sinh xã hội. Quốc hội đặt mục tiêu, đến năm 2030: Phấn đấu tăng thu nhập bình quân của người dân nông thôn năm 2030 gấp 2,5-3 lần so với năm 2020; phấn đấu tăng thu nhập bình quân của người dân tộc thiểu số bằng 1/2 bình quân chung của cả nước; phấn đấu tỷ lệ nghèo đa chiều của cả nước duy trì mức giảm từ 1 đến 1,5%/năm; phấn đấu tỷ lệ hộ nghèo đa chiều vùng dân tộc thiểu số và miền núi xuống dưới 10%; phấn đấu cả nước có khoảng 65% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó, có khoảng 10% số xã đạt chuẩn nông thôn được công nhận xã đạt nông thôn hiện đại; phấn đấu có 5 tỉnh, thành phố được công nhận hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới.
Đến năm 2035, tỷ lệ nghèo đa chiều của cả nước duy trì mức giảm từ 1 đến 1,5%/năm theo chuẩn nghèo giai đoạn 2031-2035; phấn đấu giảm ít nhất 50% số lượng xã, thôn khó khăn trên địa bàn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.