“Người đồ chơi”
Abraham Karem sinh ra ở Iraq vào ngày 27-6-1937, nhưng lớn lên ở Israel do cha ông là một người gốc Do Thái, đã hồi hương sau khi Israel thành lập. Abraham đã sớm yêu thích ngành kỹ thuật khi còn là đứa trẻ. Abraham kể: “Năm 14 tuổi, tôi bắt đầu chế tạo máy bay mô hình.
Trong vòng 2 năm, tôi đã trở thành giảng viên trong câu lạc bộ hàng không ở trường trung học. Sau đó tôi đã có được bằng phi công tư nhân”. Bằng kỹ sư hàng không của Abraham được cấp bởi viện công nghệ Technion nổi tiếng của Israel.
Khi làm việc tại Technion và là sĩ quan không quân trong 9 năm sau đó, Abraham đã học cách thiết kế và bảo trì máy bay thật, nhưng cũng tiếp tục niềm đam mê thời thơ ấu của mình với các mô hình. Sau khi gia nhập lực lượng không quân, Abraham gia nhập Israel Aircraft Industries (IAI), nơi ông nhanh chóng tiến tới đỉnh cao.
Trong vòng 4 năm, khi vẫn ở độ tuổi 30, ông được đề bạt làm Phó Chủ tịch điều hành về kỹ thuật, nhưng đã quyết định tự mình thành lập công ty riêng. Đầu năm 1974, bất chấp sự phản đối và cảnh báo của cấp trên, ông rời IAI và thành lập công ty riêng thiết kế UAV.
Ông có hơn 20 bằng sáng chế về thiết kế máy bay, thiết bị cơ khí, phương pháp sản xuất vật liệu và đổi mới hệ thống con. Nhưng do tính chính trị trong hợp đồng quốc phòng, cùng với tính cách đôi khi cáu kỉnh của Abraham, đã khiến một số thiết kế tốt nhất của Abraham không được quân đội chấp nhận.
Sau khi rời IAI, Abraham đã dành 3 năm để cung cấp cho quân đội Israel hết thiết kế UAV này đến thiết kế UAV khác mà không bán được hàng. Chán nản, ông quyết định sẽ thử vận may ở Mỹ. Vợ ông, Dina, người mà ông đã gặp khi bà còn là nhân viên soạn thảo kỹ thuật trong lực lượng Không quân Israel, ủng hộ quyết định của chồng.
Khởi nghiệp ở Mỹ
Năm 1977, để có được chỗ đứng trong ngành hàng không vũ trụ của Mỹ, Abraham đã đảm nhận vị trí tại một công ty nhỏ ở Los Angeles tên là Developmental Sciences Inc., công ty đã cung cấp cho Israel một UAV mồi nhử vào năm 1973. Sau đó, Abraham tự thuê gara để làm việc ở nhà.
Ông và 2 cộng sự đã tạo ra một máy bay biểu diễn UAV với tên gọi Albatross, chỉ nặng 90,7 kg, và có thể mang theo một máy quay truyền hình ở mũi. Theo tính toán của Dự án nghiên cứu quốc phòng tiên tiến của Mỹ (DARPA), nó có thể bay liên tục trong 56 giờ.
Hiện DARPA đã tài trợ cho các chuyến bay thử nghiệm của Albatross. Bởi trước đó, nhờ hiệu suất vượt trội của UAV này, đã khiến DARPA vào năm 1985 ký hợp đồng với công ty mới của Abraham là Systems Inc. để phát triển một loại máy bay không người lái có độ bền lớn hơn, mà cơ quan đặt tên là Amber.
Amber được điều khiển bằng sóng vô tuyến, và có thể được cấu hình để cất cánh và hạ cánh giống như máy bay thông thường, hoặc gập cánh và bộ ổn định để phóng bằng tên lửa từ hộp đựng. Đặc biệt, Amber có thể được thu hồi bằng cách đặt nó vào một “ngăn sâu” - một tính năng được sử dụng trong các mô hình tàu lượn bay tự do để thoát khỏi luồng nhiệt và duy trì trong giới hạn thời gian bay. Điều này giúp Amber có thể hạ cánh gần như thẳng đứng.
Thế nhưng, Amber vẫn không có được hợp đồng lớn, nên Abraham chuyển trọng tâm sang phiên bản xuất khẩu công nghệ thấp hơn, gọi là Gnat-750. Trong khi Abraham cố gắng bán hàng ra nước ngoài, thì khoản vay ngân hàng trị giá 5 triệu USD đã đến hạn.
Năm 1990, ông đã phải bán lại Systems Inc. cho 2 anh em tỷ phú danh tiếng Neal và Linden Blue. Công ty của anh em nhà Blue đang phát triển máy bay không người lái của riêng mình nhưng đạt được rất ít thành công, vì vậy họ đã thuê Abraham và 8 người của ông làm việc.
“Quái thú vô hình” Predator
Trong khi chính quyền thời Tổng thống Clinton đang loay hoay tìm cách giám sát các cuộc xung đột sắc tộc ở vùng Balkan, Giám đốc CIA James Woolsey nhớ đến Abraham, người mà ông đã gặp và ngưỡng mộ nhiều năm trước đó. CIA đã mua 2 chiếc Gnat-750 kèm theo máy quay video và bắt đầu bay chúng qua Bosnia.
Chúng được phóng từ Albania, nơi đặt trạm điều khiển mặt đất và người điều khiển. Khi điều đó đang diễn ra, Bộ Quốc phòng đã tổ chức một cuộc cạnh tranh để giành quyền trình diễn trong các nhiệm vụ thực tế một loại máy bay không người lái, có khả năng hoạt động ở độ cao trung bình tiên tiến hơn.
Một yêu cầu là máy bay phải có ăng-ten vệ tinh, để nó có thể được điều khiển bởi những người điều khiển ở xa hơn nhiều so với những người lái chiếc Gnat, chiếc máy bay qua Bosnia phải chuyển tín hiệu đến Albania thông qua một chiếc tàu lượn có động cơ được điều khiển.
Để nhường chỗ cho ăng-ten vệ tinh, Abraham đã sửa lại phần mũi cho Gnat-750, tạo thêm một phần phình lớn hướng lên trên. Chiếc máy bay mới này không được trang bị vũ khí, nhưng Chủ tịch General Atomics Aeronautical Systems Inc. (GA-ASI) và Chuẩn Đô đốc (đã nghỉ hưu) Thomas J. Cassidy, quyết định gọi nó là Predator, tên mà công ty đã sử dụng cho chiếc máy bay không người lái trước đó.
Predator đã thay đổi ngành hàng không quân sự. Bởi khi Predator bắn tên lửa đầu tiên trong chiến đấu (ở Afghanistan vào ngày 7-10-2001), quân đội Mỹ chỉ có một số ít UAV. Còn ngày nay, lực lượng vũ trang Mỹ sở hữu gần 8.000 chiếc.
Máy bay không người lái ở mọi quy mô hiện nay là một phần không thể thiếu trong các hoạt động chiến đấu, chủ yếu cung cấp thông tin tình báo, giám sát và trinh sát. Riêng Predator có thể đảm bảo danh hiệu nổi tiếng cho Abraham. Tuy nhiên, Predator chỉ là đóng góp nổi bật nhất mà Abraham đã thực hiện cho ngành hàng không trong sự nghiệp kéo dài 5 thập kỷ.
Ngay sau khi rời General Atomics, Abraham bắt đầu làm việc trên chiếc máy bay không người lái A160 Hummingbird của Boeing ngày nay. Hiện Abraham đang chi phần lớn số tiền thu được từ việc bán công ty sau này - Frontier Systems, để phát triển một cánh quạt nghiêng cỡ 737.
Đây là loại máy bay trực thăng-máy bay lai, sử dụng cánh quạt có tốc độ tối ưu giống như loại mà ông đã được cấp bằng sáng chế cho chiếc A160, nhằm cạnh tranh với các máy bay phản lực trong lĩnh vực hàng không.