(ĐTTCO) - Mái đình ôm ấp, nâng niu tình làng nghĩa xóm. Mái đình xe duyên cho bao đôi lứa yêu nhau. Còn gì thi vị hơn khi xuân về tết đến chúng ta trở về cố hương, thăm ngôi đình làng, dâng hương tưởng nhớ ông bà tổ tiên, ngồi bên gốc đa trước sân đình mơ màng nhớ về bao kỷ niệm…
1.001 chuyện
Tôi là người thích chuyện xưa tích cũ nên đi đâu cũng thường tìm đến chùa chiền, đình miếu, đền đài, thành quách để chiêm ngưỡng, tưởng nhớ công tích tiền nhân. Từ thuở nhỏ tôi đã mê mải với đình chùa và thích nghe những lời ru của bà của mẹ về những cảnh quan gần gũi này. Lớn lên đi xa, mỗi dịp trở về quê ăn tết, chiều chiều tôi lại lang thang vào chùa, ra đình trong niềm thương nhớ:
Chiều xuân thăm lại ngày xưa
Thương ai đánh gió đuổi mưa dựng đình
Lạt mềm buộc chặt nghĩa tình
Gái ngoan ngả nón trúc xinh nghiêng chào.
Ngôi đình gắn liền với những trò chơi dân gian tuổi nhỏ, những đêm hát bội ngày xuân và những lễ hội cổ truyền rộn rịp cờ hoa chiêng trống lễ bái. Có lúc tôi như kẻ mất hồn khi đứng trước những ngôi đình hoang phế, đổ nát từng bị biến thành sân phơi, kho lúa hay nơi hội họp, làm việc của cán bộ tập đoàn, hợp tác xã, rồi khi kiểu làm ăn duy ý chí này ở nông thôn kém hiệu quả, bị giải tán đình chùa cũng bị bỏ trống, chẳng cắt cử ai trông nom…
Cây đa bến nước sân đình đã đi vào tâm khảm người Việt Nam, từ nông thôn đến thành thị, như một trong những hình ảnh thiêng liêng nhất khi hướng về cội nguồn. Và không ít mối tình nơi thôn dã đã nên vóc nên hình nhờ… cái đình, như lời ca dao:
Qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói, thương mình bấy nhiêu.
Cái đình trong tâm thức dân gian Việt là một hình ảnh gắn bó mật thiết với cuộc sống và tình yêu lứa đôi. Đình miếu là chốn tôn nghiêm, nơi hội tụ và lưu giữ hồn quê. Đình miếu còn là điểm tựa tinh thần, biểu trưng cho vẻ đẹp lãng mạn thanh khiết của những tâm hồn chân chất yêu nhau:
Trúc xinh trúc mọc đầu đình
Em xinh em đứng một mình cũng xinh.
Một sự so sánh tưởng chừng phi lý nhưng rất hợp lý. Cái hợp lý của thế giới tình yêu, và ngẫu nhiên tác tạo nên một bức tranh đầy thi vị: trúc-đình-người đẹp. Nghĩa là khi “bước vào” trong bức tranh ấy, người đẹp càng đẹp càng xinh hơn. Nhưng chưa dừng lại ở sự so sánh đó, nhờ “điểm tựa” cái đình mà chàng trai còn mạnh miệng… tiến xa:
Ngó ra sông Cái
Ngó ngoái thấy đình
Hạc chầu thần còn đủ cặp
Huống chi mình muốn lẻ đôi!
Còn lời tỏ tình nào vừa ngọt vừa khéo vừa trang trọng hơn thế, trang trọng như… cái đình!
Trong những câu chuyện vào buổi tối trước khi đi ngủ, tôi từng nghe bà ngoại và mẹ kể về những đôi trai gái nhờ lội qua bến Đình, giúp đỡ nhau sang sông, trò chuyện với nhau dưới bóng đa sân đình mà nên vợ nên chồng. Khi quyết định cùng nhau trăm năm đầu bạc răng long, họ cũng ra đình thắp hương thề non hẹn biển cầu mong mãi được sánh đôi như “Hạc chầu thần…”.
Một lần ra Hà Nội, tôi được họa sĩ Trần Đỗ Nghĩa đưa lên thăm đình Chèm nằm bên bờ sông Hồng. Đây là một trong những ngôi đình cổ nhất nước ta, niên đại cả ngàn năm, có kiến trúc nghệ thuật độc đáo, thờ Lý Ông Trọng, một nhân vật huyền thoại có công với nước từ thời Hùng Vương. Đình Chèm phong cảnh thơ mộng, giữa ban ngày có nhiều đôi uyên ương đến đây trò chuyện, tình tứ. Thấy tôi ngạc nhiên, họa sĩ Nghĩa cười: “Đó là việc bình thường. Những đôi trai gái thực sự yêu nhau mới tìm đến nơi linh thiêng này để được thành vợ thành chồng”.
Lần khác tôi xuôi về Bến Lức, Long An thăm đình Nhựt Chánh. Lão nông Nguyễn Văn Trí, người có đôi bàn chân giao chỉ hiếm hoi và cao tuổi nhất ở đây, cho biết ngôi đình này là nơi tác hợp nhiều cặp vợ chồng. Đình Nhựt Chánh nằm giữa cánh đồng mênh mông, là một trong những ngôi đình cổ điển hình của Nam bộ, tuy kiến trúc đơn sơ nhưng ấm cúng. Bất kỳ đôi vợ chồng nào trong làng sau khi kết hôn cũng đều ra đình đặt lễ thắp hương cúng vái ông bà.
Lễ hội đình Chèm bên bờ sông Hồng ở Hà Nội. |
Một thiết chế văn hóa phong tục tốt đẹp
Từ thuở xa xưa, tổ tiên ta đã lập đình miếu để thờ cúng phúc thần - những người có công với dân với nước. Đây là một thiết chế văn hóa tín ngưỡng dân gian mang đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, nhờ vậy nó tồn tại và phát triển lâu bền trong đời sống tinh thần dân tộc.
Đình miếu nằm trong khuôn khổ làng xã nên không xây dựng to lớn kỳ vĩ như đền đài, thành quách. Theo bước chân những người đi khai hoang mở đất lập làng, trải dọc từ Bắc chí Nam, từ miền xuôi đến miền ngược và cả hải đảo xa xôi, ở đâu Nhân dân ta cũng lập đình lập miếu để cúng tế, hội họp.
Đình miếu được dựng nên bằng chính tiền của, công sức của dân làng, trở thành tài sản chung của làng, niềm tự hào của làng, biểu tượng nhắc nhở cho các thế hệ về lòng nhân nghĩa, đạo lý ở đời. Mỗi làng đều có một ngôi đình để thờ đức thành hoàng, phúc thần, đồng thời đây cũng là nơi hội họp việc làng về hành chính, xã hội, tôn giáo.
Nhà văn Sơn Nam trong công trình biên khảo Đình miếu và lễ hội dân gian miền Nam, rất chí lý khi cho rằng: “Xây dựng đình làng là nhu cầu tinh thần, có đình mới tạo được thế đứng, gắn bó vào cộng đồng dân tộc và càn khôn vũ trụ, bằng không chỉ là lục bình trôi sông, viên gạch rời rạc, một dạng “lưu dân tập thể”, mặc dầu làng lắm gạo nhiều tiền”.
Để dựng một ngôi đình, dân làng hết sức cẩn trọng trong việc xem phong thủy, nhất là hướng đình vì nó có ảnh hưởng đến mọi mặt đời sống của cả làng: tín ngưỡng, trồng trọt, chăn nuôi, buôn bán, bệnh hoạn, học hành, thăng tiến… Ca dao miền Bắc có câu:
Toét mắt là tại hướng đình
Cả làng toét cả, một mình em ru?
Đình làng thường quay mặt về hướng Nam. Chỉ có những trường hợp đặc biệt vì lý do phong thủy, đình mới quay mặt theo hướng khác. Cũng do việc chọn hướng đình mà từng xảy ra mâu thuẫn giữa các làng với nhau. Nhà văn hóa Toan Ánh trong tác phẩm Tín ngưỡng Việt Nam có dẫn lại lời của nhà nghiên cứu người Pháp Chapuis kể rằng tại huyện Gio Linh tỉnh Quảng Trị, dân làng Mai Xá Chánh nhận thấy hướng đình làng Mai Xá Thị chuẩn bị xây có một đao đình “khắc” với đình làng của họ, nên đã lên tiếng phản đối mạnh mẽ. Sự việc căng thẳng đến mức chính quyền phải đưa binh lính về can thiệp mới tạm yên ổn.
Nếu ở đồng bằng sông Hồng, đất tự ngàn xưa của tổ tiên, việc xây dựng đình miếu trong mỗi làng là điều hiển nhiên, thì đối với vùng đất mới phương Nam, việc xây đình lập miếu không phải dễ dàng mà cần phải có “tư thế pháp nhân”. Trước hết phải được nhà nước phong kiến công nhận làng mới, sau đó mới xin phép xây đình miếu, nhận sắc thần vua ban. Từ luật lệ ấy đã nảy sinh những tiêu cực về thủ tục giấy tờ, phải qua nhiều cửa, nhiều con dấu con triện, bọn quan lại cường hào có cơ hội hành dân.
Khi nghiên cứu đến vấn đề này, nhà Nam bộ học Sơn Nam đã phải thốt lên: “Lập làng để đóng thuế cho nhà nước đã là tốn thời giờ, huống gì xin lập đình. Xin một sắc thần, đòi hỏi thủ tục, đút lót. Ngày Tết, đầu năm, xong vụ mùa, tuy đủ ăn dân làng ấy thấy mình như mồ côi. Đem tiền bạc, phí thời giờ đến đình làng kế cận để vui chơi quả là buồn tủi”.
Mới biết cái đình quan trọng như thế nào trong xã hội người Việt xưa. Loại bỏ những yếu tố tiêu cực, đình miếu luôn là một thiết chế văn hóa phong tục tốt đẹp mà đến nay vẫn còn ảnh hưởng sâu đậm trong đời sống tâm linh của dân tộc. Đình làng không chỉ lưu giữ cái hồn của làng quê, mà còn là một trong những hình ảnh biểu trưng cho tình yêu Việt, bản sắc và tinh hoa Việt.