NHNN cho biết, theo kinh nghiệm về TTTC của một số nước, TTTC sẽ là nơi tập trung nhiều định chế tài chính, NH, công ty dịch vụ tài chính và các sàn giao dịch tiền tệ, hàng hóa… được áp dụng các chính sách và khung pháp lý riêng, vượt trội, đặc thù hơn so với quy định hiện hành trong nước, phù hợp với thông lệ quốc tế để có thể triển khai được việc cung cấp các sản phẩm/dịch vụ tài chính, phi tài chính hiện đại cho khách hàng là thành viên khác trong TTTC, khách hàng trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam.
Theo đó, nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển TTTC Việt Nam tại Nghị quyết 222, khuyến khích, thu hút tối đa nguồn vốn quốc tế, góp phần phát triển kinh tế đất nước, việc nghiên cứu, xây dựng Nghị định trên cơ sở kế thừa và chọn lọc các quy định hiện hành để hình thành nên một khung pháp lý với những chính sách tương đối thông thoáng về hoạt động ngân hàng, quản lý ngoại hối, phòng, chống rửa tiền là điều hết sức cần thiết.
Trong đó về vấn đề quản lý ngoại hối, theo quy định của Pháp lệnh Ngoại hối, chính sách quản lý ngoại hối được thực hiện nhằm tạo điều kiện thuận lợi và bảo đảm lợi ích hợp pháp cho tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động ngoại hối, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế; thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia, nâng cao tính chuyển đổi của đồng Việt Nam; thực hiện mục tiêu trên lãnh thổ Việt Nam chỉ sử dụng đồng Việt Nam…
Tuy nhiên, mục đích thành lập TTTC tại Nghị quyết 222 là yêu cầu nới lỏng việc tự do chuyển đổi ngoại tệ, luân chuyển dòng vốn phục vụ giao dịch xuyên biên giới… Do đó, cần nghiên cứu khung pháp lý để vừa đảm bảo tính “tự do” trong phạm vi TTTC, vừa hạn chế tối đa rủi ro liên thông đến nền kinh tế nội địa.
Theo đó, dự thảo Nghị định có quy định điều kiện đối với NHTM 100% vốn trong nước và tổ chức khác do tổ chức trong nước thành lập được cho vay tổ chức cá nhân nước ngoài; quy định rõ nguyên tắc thành viên phải thực hiện qua tài khoản vốn (tài khoản thanh toán có tính chất chuyên dùng); quy định việc khai báo và tuân thủ chế độ báo cáo theo hướng dẫn của NHNN; quy định thành viên có thể cho vay bằng ngoại tệ đối với các tổ chức trên lãnh thổ Việt Nam với điều kiện bên đi vay tại Việt Nam phải tuân thủ điều kiện vay và thực hiện các thủ tục khai báo, đăng ký, báo cáo khoản vay...
Đối với trường hợp NHTM 100% vốn trong nước và tổ chức khác do tổ chức trong nước thành lập được cho vay tổ chức cá nhân nước ngoài, việc cho vay ra nước ngoài của nhóm đối tượng này được quản lý theo từng giao dịch (tương tự quy định hiện hành về cho vay ra nước ngoài), tuy nhiên dự thảo Nghị định quy định nới lỏng hơn theo hướng không yêu cầu tổ chức không phải NHTM, chi nhánh NH nước ngoài phải xin Thủ tướng chấp thuận từng giao dịch như hiện hành; giảm bớt các trường hợp phải đăng ký, đăng ký thay đổi (chính sách vượt trội).
Về vấn đề hoạt động NH và đảm bảo an toàn trong hoạt động NH, TTTC xuất hiện nhiều chủ thể hoạt động và các tổ chức tham gia TTTC cung cấp nhiều sản phẩm tài chính đa dạng bao gồm các định chế tài chính chứng khoán, bảo hiểm… Do vậy, NH sẽ thực hiện các nghiệp vụ NH thương mại truyền thống trong phạm vi phù hợp với định hướng quy định tại Nghị quyết 222.
Theo đó, NHTM, chi nhánh NH nước ngoài khi tham gia TTTC thực hiện cung ứng dịch vụ, nghiệp vụ NH cần phải tuân thủ các tỷ lệ đảm bảo an toàn (tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, tỷ lệ thanh khoản, tỷ lệ khả năng chi trả,…) theo quy định của pháp luật hiện hành có xét tới sự phù hợp với tính chất hoạt động của từng loại hình NH trong TTTC.
Về vấn đề về thanh tra, giám sát, các quy định pháp lý hiện hành đang được thiết kế cho hoạt động của hệ thống NH trên lãnh thổ Việt Nam. Do vậy, đối với công tác thanh tra, giám sát các NH hoạt động trong TTTC, các quy định pháp lý cần được xây dựng linh hoạt để theo kịp các mô hình hoạt động mới trong TTTC. Ngoài ra, công tác thanh tra, giám sát hoạt động NH có thể gặp một số thách thức trong việc tiếp cận thông tin đặc biệt là các thông tin về dòng vốn xuyên biên giới hoặc các giao dịch phức tạp, đòi hỏi cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan làm công tác thanh tra, giám sát trong TTTC cũng như cần có sự phối hợp, chia sẻ thông tin dữ liệu với các cơ quan quản lý nhà nước trong và ngoài nước có liên quan.
Về vấn đề về phòng chống rửa tiền, theo quy của Luật Phòng, chống rửa tiền, việc phòng, chống rửa tiền phải thực hiện theo quy định của pháp luật trên cơ sở bảo đảm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia, lợi ích quốc gia; bảo đảm hoạt động bình thường về kinh tế, đầu tư; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; chống lạm quyền, lợi dụng việc phòng, chống rửa tiền để xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân có liên quan.
Với mức độ mở cửa cao hơn trong TTTC về dòng vốn, giao dịch xuyên biên giới cùng với sự hiện diện của nhiều tổ chức tài chính quốc tế lớn trong các lĩnh vực không chỉ riêng NH, cần phải có cơ chế chính sách chặt chẽ để các đối tượng không “lợi dụng” TTTC và các chính sách đặc thù vượt trội để “hợp pháp hóa” nguồn tiền.
Cụ thể, dự thảo đã đưa ra quy định một số chính sách đặc thù, vượt trội cho đối tượng báo cáo tại TTTC gồm: cho phép thực hiện các biện pháp phòng, chống rửa tiền mà chủ sở hữu, NH mẹ đang áp dụng mà pháp luật Việt Nam chưa có quy định nhưng đảm bảo không trái quy định của pháp luật Việt Nam; áp dụng chế độ báo cáo giao dịch chuyển tiền điện tử quốc tế (ngưỡng báo cáo 1.000 USD) đối với các đối tượng báo cáo tại TTTC.