'Kích hoạt' tiềm năng kinh tế tư nhân

(ĐTTCO) - Nền kinh tế không thể đạt được tốc độ tăng trưởng bền vững, và cũng không thể chuyển dịch sang nền kinh tế dựa nhiều trên công nghệ, nếu như khu vực KTTN không tăng trưởng ở tốc độ cao, không chuyển mình mạnh mẽ để hấp thụ. 

KTTN cần được xem là trụ cột chính và động lực chính của nền kinh tế.
KTTN cần được xem là trụ cột chính và động lực chính của nền kinh tế.

Vai trò quyết định đối với tổng cầu

Trong hơn 3 thập niên qua, khu vực KTTN tại Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc, chuyển mình từ thành phần kinh tế còn nhỏ lẻ, manh mún thành trụ cột quan trọng của nền kinh tế.

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, khu vực KTTN hiện đóng góp xấp xỉ 50% GDP. Trong đó, bộ phận doanh nghiệp (DN) đăng ký chính thức đóng góp hơn 10% GDP; khu vực hộ kinh doanh cá thể, hộ sản xuất nông nghiệp, trang trại và các cơ sở kinh tế, cá nhân kinh doanh khác đóng góp khoảng 40% GDP. Khu vực KTTN tạo việc làm cho khoảng 85% lao động cả nước.

KTTN đóng vai trò quan trọng trong tổng cầu, và do vậy đóng vai trò quyết định tới tốc độ tăng trưởng. Chẳng hạn khu vực KTTN hiện đang đóng góp tới gần 30% tổng kim ngạch xuất khẩu. Về góc độ đầu tư, khu vực KTTN hiện đang đóng góp 56% tổng đầu tư toàn xã hội.

dsc09201-1639018896.jpg

Đây là tỷ trọng rất cao so với mức 28% của khu vực DN nhà nước (DNNN), và 16% của khu vực có vốn nước ngoài (FDI). Cụ thể, trong tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội dự kiến đạt khoảng 174 tỷ USD vào năm 2025, khu vực KTTN đóng góp khoảng 96 tỷ USD hay xấp xỉ 56%. Trong khi đó đầu tư công chỉ đóng góp khoảng 36 tỷ USD, khu vực FDI khoảng 28 tỷ USD, và đầu tư khác khoảng 14 tỷ USD.

Khác với đầu tư công và đầu tư nước ngoài - vốn có những hạn chế để mở rộng về khối lượng như giới hạn về trần nợ công, áp lực đối với ngân sách nhà nước, hay các cân nhắc về tỷ trọng cũng như chất lượng đầu tư FDI trong bài toán tổng thể, thì khu vực KTTN có thể mở rộng đầu tư trong nước rất lớn.

Có thể dễ dàng nhìn vào tài sản được người dân nắm giữ như vàng, ngoại tệ, đất đai, tiết kiệm trong hệ thống ngân hàng. Khi mở rộng đầu tư tư nhân sẽ nâng cao được năng lực nội sinh, hỗ trợ mạnh mẽ hơn cho mục tiêu GDP, cũng như quá trình chuyển đổi từ mô hình tăng trưởng truyền thống sang mô hình tăng trưởng mới với chất lượng cao hơn, có tính chất bền vững hơn.

Cần những quyết sách mạnh mẽ

Kể từ khi nền kinh tế bắt đầu công cuộc đổi mới, đã giúp mô hình tăng trưởng Việt Nam tận dụng được những lợi thế về lao động giá rẻ, tài nguyên đất đai, vị trí địa lý, khả năng nắm bắt cơ hội từ thương mại quốc tế. Việt Nam đã thu hút được một lượng lớn vốn FDI để đóng góp cho sự tăng trưởng của đất nước.

Theo đó, khu vực DNNN cũng được đổi mới và tiếp tục lớn mạnh, hiện nắm giữ tài sản gần 4 triệu tỷ đồng, sở hữu 20,5% nguồn vốn của khu vực DN nói chung. Thế nhưng, đóng góp của các DNNN không đồng đều, tập trung vào một số DN lớn như Petrovietnam hay Viettel…; sở hữu nguồn vốn lớn nhưng sử dụng chưa hiệu quả, chưa được như mong muốn và chưa thúc đẩy mạnh mẽ tăng trưởng của đất nước.

Trong khi đó cùng với sự phát triển của khu vực FDI, KTTN đã trở thành một lực lượng quan trọng và dần dần trưởng thành. Tuy nhiên, sự phát triển của khu vực KTTN vẫn được đánh giá dưới tiềm năng. Đây là thời điểm chúng ta cần phát huy tối đa nội lực của nền kinh tế, khu vực KTTN phải khẳng định được năng lực nội sinh, hỗ trợ mạnh mẽ hơn cho mục tiêu tăng trưởng GDP.

Để kích hoạt tiềm năng vô cùng to lớn của khu vực KTTN, chúng ta cần những quyết sách để nuôi dưỡng tinh thần DN, để quyền được tự do kinh doanh những điều pháp luật không cấm. Phương thức điều hành của cơ quan quản lý cần dựa trên công cụ thị trường hơn là các quyết định hành chính. Hệ thống pháp luật phải sử dụng nhuần nhuyễn các công cụ và cơ chế thị trường trong huy động, phân bổ nguồn lực, khai thông được nguồn lực để phục vụ cho phát triển kinh tế, xã hội.

Điều này đồng nghĩa với việc cần thiết lập các cơ chế pháp lý hỗ trợ các hoạt động có mức độ rủi ro cao, nhưng mang lại lợi ích đột phá về năng suất và công nghệ. Những quyết sách đó sẽ là nền tảng để nhanh chóng giới thiệu và áp dụng các cơ chế thử nghiệm có kiểm soát (regulatory sandbox), các chính sách dành cho các DN đổi mới sáng tạo, cũng như các biện pháp hỗ trợ hấp thụ và chuyển giao công nghệ từ nước ngoài.

Hệ thống pháp luật cần khuyến khích được tinh thần đầu tư mạo hiểm, dám chấp nhận rủi ro và hình thành được hệ sinh thái để hỗ trợ cho các dự án đầu tư mạo hiểm, các ý tưởng kinh doanh của các DN. Cùng với đó, hệ thống pháp luật cũng cần được cải cách theo hướng đơn giản hóa thủ tục hành chính, giảm thiểu chi phí tuân thủ pháp luật, và hạn chế tối đa rủi ro pháp lý cho DN.

Đồng thời, các tổ chức và định chế vận hành bộ máy thực thi chính sách cũng được cải cách. Các cơ quan công quyền sẽ được tổ chức theo hướng phục vụ DN và người dân, thay vì chỉ đơn thuần đóng vai trò quản lý hành chính.

Điều này đòi hỏi sự chuyển đổi từ tư duy quản lý sang tư duy kiến tạo phát triển, thể hiện qua việc cải thiện chất lượng dịch vụ công, đẩy nhanh tiến độ xử lý thủ tục hành chính, và nâng cao tính minh bạch trong quá trình ra quyết định.

Những quyết sách như vậy sẽ giúp DN thấy họ được hoạt động trong môi trường an toàn, được pháp luật bảo vệ và bao dung, để khi thất bại họ có cơ hội làm lại. Nhờ đó DN sẽ phấn khởi, hồ hởi trong sản xuất, kinh doanh, hào hứng đầu tư mạo hiểm, đầu tư vào hoạt động nghiên cứu phát triển, đổi mới sáng tạo, ý tưởng mô hình kinh doanh mới… Những quyết sách như vậy cũng sẽ khẳng định và củng cố vai trò của KTTN trong nước là trụ cột chính, và động lực chính của nền kinh tế.

Coi KTTN là trụ cột chính và động lực chính, cũng góp phần nâng cao năng lực nội sinh, củng cố vị thế tự lực, tự cường của nền kinh tế. Hoài bão về một đất nước Việt Nam thịnh vượng, phồn vinh, hùng cường và tự chủ về kinh tế cũng sẽ gần hơn, khả thi hơn, dễ được hiện thực hóa hơn khi có sự chung tay của người dân, của khu vực KTTN trong nước.

Chỉ cần đầu tư của KTTN tăng 1%, sẽ mang lại mức tăng về giá trị tuyệt đối tương đương với việc đầu tư công phải tăng 2,5%, và đầu tư nước ngoài tăng 3,5%.

Các tin khác