Nghịch lý hòn than

Việt Nam được coi là mỏ vàng đen của châu Á và Đông Nam Á, với trữ lượng khoảng 3,5 tỷ tấn. Hàng chục năm qua, Việt Nam tập trung khai thác để xuất khẩu. Có thời điểm (giai đoạn 2006-2011) Việt Nam xuất khẩu tới 21 triệu tấn than, thậm chí năm 2011 nằm trong top 5 nước xuất khẩu than lớn nhất thế giới.

Việt Nam được coi là mỏ vàng đen của châu Á và Đông Nam Á, với trữ lượng khoảng 3,5 tỷ tấn. Hàng chục năm qua, Việt Nam tập trung khai thác để xuất khẩu. Có thời điểm (giai đoạn 2006-2011) Việt Nam xuất khẩu tới 21 triệu tấn than, thậm chí năm 2011 nằm trong top 5 nước xuất khẩu than lớn nhất thế giới.

Các chuyên gia đã lên tiếng cảnh báo về việc liên tục nhiều năm ngành than chỉ chăm chăm đào than lên để bán, nhưng Vinacomin (Tập đoàn Công nghiệp than khoáng sản Việt Nam) không những bỏ ngoài tai mà còn tìm đủ mọi cách để đẩy mạnh xuất khẩu. Như việc xin giảm thuế suất than từ 13% xuống 10% vào cuối năm 2013, hay biện minh rằng loại than bán đi là than tốt, trong nước không sử dụng... Tư duy và cách làm đó đã biến Việt Nam từ một “ông lớn” về trữ lượng than chuyển sang đứng trước nguy cơ thiếu hụt.

 Theo dự báo Quy hoạch phát triển ngành than Việt Nam đến năm 2020, có xét triển vọng đến năm 2030, Chính phủ cho rằng nhu cầu than trong nước đang ngày càng tăng cao. Năm 2015 là 56,2 triệu tấn, năm 2020 là 112,3 triệu tấn, năm 2025 là 145,5 triệu tấn, và cho đến năm 2030, Việt Nam sẽ phải tiêu thụ tới 220,3 triệu tấn.

Như vậy, so với mức tiêu thụ năm 2013 (28 triệu tấn) đến năm 2015, nhu cầu than trong nước sẽ tăng gấp hơn 2 lần và đến năm 2030 tăng gấp 8 lần. Trong khi đó, sản lượng than hiện tại mới chỉ đạt 40 triệu tấn và tương lai cũng khó tăng. Do những chỗ dễ đào đã được khai thác hết, chỉ còn lại những chỗ khó khăn.

Hơn nữa, việc đầu tư mỏ mới cần chi phí lớn, thời gian dài (khoảng 300-400 triệu USD và 7-8 năm) nên nhiệm vụ Thủ tướng giao ngành than phải mở 28 mỏ mới trong giai đoạn 2011-2015 gần như không thể hoàn thành. Bài toán nhập khẩu than được đặt ra từ đây. Vấn đề là Việt Nam đang phải bỏ ra một khoản tiền không nhỏ để tìm mọi cách cứu nguy cho an ninh năng lượng quốc gia.

Thực tế từ năm 2011, Việt Nam đã bắt đầu nhập than với số lượng ban đầu 9.500 tấn và con số này đã tăng chóng mặt. Năm 2013, chúng ta đã phải nhập khẩu than đá với số lượng khá lớn và mặt hàng này được đưa vào nhóm cần nhập khẩu trong bảng thống kê nhập khẩu hàng tháng của liên bộ Công Thương - Kế hoạch - Đầu tư - Tài chính.

Theo số liệu mới nhất của Bộ Công Thương, từ đầu năm 2014 đến nay nước ta đã nhập khẩu trên 2,8 triệu tấn than đá trị giá 338 triệu USD, tăng 44,7% về giá và 40,2% về lượng nhập so với cùng kỳ năm 2013. Khả năng trong năm nay cả nước sẽ nhập trên 3 triệu tấn than và số lượng nhập than sẽ tăng dần qua các năm: 2020 sẽ nhập khẩu khoảng 35 triệu tấn than; 2030 khoảng 135 triệu tấn.

Điều trái khoáy, việc nhập khẩu than của một nước mạnh về xuất khẩu than như Việt Nam là nghịch lý nhưng lại không gây bất ngờ, thậm chí là tất yếu từ hoạt động của ngành than lâu nay. Đáng lẽ ra, hàng chục năm xuất khẩu than, chúng ta phải đầu tư công nghệ khai thác sâu, quy hoạch thăm dò, tính toán nguồn than để sản xuất được than chất lượng tốt, chứ không để bây giờ phải nhập khẩu.

Lâu nay ngành than chủ yếu khai thác các mỏ lộ thiên. Chỗ nào dễ khai thác hết, còn mỏ khó không đầu tư khai thác sâu. Đó là hậu quả của cơ chế nhiệm kỳ ở các doanh nghiệp nhà nước. Vì thế, cũng không thể biện hộ cho việc nước ta không khai thác được than chất lượng tốt nên phải nhập để trộn với than trong nước bán cho các nhà máy nhiệt điện, bởi ngành than không chịu nghiên cứu, đầu tư công nghệ tiên tiến để khai thác các mỏ sâu, chỉ khai thác các mỏ lộ thiên, chất lượng thấp.

Ngoài ra, nguồn than chất lượng tốt khai thác được cũng dành để xuất khẩu. Trong khi trữ lượng của than là cái không thể tái tạo. Ngành than cũng bất cập trong việc cân đối cung cầu, nên mới xảy ra chuyện vừa xuất khẩu vừa nhập khẩu. Đặc biệt, trong khi xuất đi các loại than chất lượng cao, nay chúng ta đang phải nhập về loại than chất lượng thấp với giá cả cao hơn.

Không chỉ chuyện nhập than, ngay tại lúc này việc ngân sách bị ảnh hưởng nặng từ giá dầu thô giảm mạnh cũng là lời cảnh báo cho việc phát triển dựa vào xuất khẩu tài nguyên. Theo tính toán của Chính phủ, giá dầu thô cứ giảm 1USD/thùng sẽ làm ngân sách nhà nước hụt thu khoảng 1.000 tỷ đồng.

Trong khi đó, giá dầu thô thế giới đã giảm gần 40% tính từ đầu năm đến nay và dự báo xu hướng giảm sẽ còn tiếp tục. Vì thế, đây là lúc phải cơ cấu lại nguồn thu ngân sách, giảm phụ thuộc vào khai thác tài nguyên vì lĩnh vực này không chỉ phụ thuộc biến động trên thị trường thế giới mà còn làm cạn kiệt tài nguyên đất nước.  

Các tin khác