Vì thế, yêu cầu tái cấu trúc thị trường tài chính, giảm dần sự phụ thuộc quá lớn vào hệ thống ngân hàng (NH), hướng tới nền tài chính cân bằng và bền vững đang là vấn đề được đặt ra.
Tín dụng NH áp đảo
Theo số liệu được công bố, thị trường tài chính Việt Nam hiện đã đạt quy mô khoảng 30 triệu tỷ đồng, tăng trưởng trung bình 16% mỗi năm trong suốt 15 năm qua, gấp 2,5 lần tốc độ tăng trưởng GDP. Tuy nhiên, đằng sau con số ấn tượng, không thể bỏ qua những vấn đề mất cân đối nội tại.
Cụ thể, khu vực NH vẫn chiếm tới 67% quy mô thị trường tài chính, và cung ứng 59% tổng vốn cho nền kinh tế trong 6 tháng đầu năm 2025. Trong khi đó, thị trường trái phiếu doanh nghiệp chỉ chiếm 10-12%, và vốn hóa thị trường chứng khoán chỉ đạt khoảng 22%.
Chia sẻ tại tại Diễn đàn cấp cao cố vấn tài chính Việt Nam (VWAS) mới đây, TS. Cấn Văn Lực, Chuyên gia kinh tế trưởng BIDV, cũng đề cập đến vấn đề phụ thuộc vào vốn NH của nền kinh tế đang ngày một gia tăng. Tính đến giữa năm 2025, tín dụng chiếm tới 59% tổng nguồn vốn cung ứng cho nền kinh tế, tăng mạnh so với mức 50,6% cuối năm 2024. Trong khi đó, tỷ trọng vốn FDI và đầu tư công giảm xuống còn 13,96% và 13,23%.
Trong khi đó, 2 kênh vốn được xem là có thể thay thế cho tín dụng là trái phiếu doanh nghiệp và thị trường cổ phiếu, chỉ chiếm tỷ trọng 9,95% và 0,23%, trong khi cuối năm 2024 chiếm tỷ trọng lần lượt là gần 11% và 3,3%.
Những con số trên phản ánh rõ một thực tế, thị trường tài chính Việt Nam đang phát triển mất cân xứng, trong đó khu vực NH phải gánh phần lớn trách nhiệm tài trợ vốn cho nền kinh tế, còn kênh trái phiếu, cổ phiếu chưa trở thành kênh cung ứng vốn dài hạn.
Ông Nguyễn Quang Thuân, Chủ tịch HĐQT Fiingroup, cũng nhìn nhận vấn đề vốn vẫn là “nút thắt” lớn nhất của doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là khu vực tư nhân. Các dự án quy mô từ vài chục đến hàng trăm tỷ đồng vẫn chủ yếu trông chờ vào vốn vay NH, trong khi các kênh vốn dài hạn khác như trái phiếu doanh nghiệp, quỹ đầu tư hay thị trường chứng khoán chưa phát triển tương xứng với nhu cầu thực tế.
Về nguyên tắc, hệ thống NH chỉ cung cấp nguồn vốn ngắn hạn và trung hạn, các kênh vốn trái phiếu, cổ phiếu, quỹ đầu tư, bảo hiểm mới là nơi cung ứng vốn dài hạn cho doanh nghiệp. Còn hiện nay, doanh nghiệp vẫn đang vay NH để đầu tư dự án hạ tầng, nhà xưởng, hay bất động sản, vốn là những lĩnh vực cần vốn dài hạn.
Trong khi đó, phần lớn vốn huy động của NH là vốn ngắn hạn. Điều này tạo ra một nghịch lý, vốn ngắn hạn đang nuôi các dự án dài hạn, khiến rủi ro thanh khoản của hệ thống NH cũng gia tăng.
Giảm áp lực cho hệ thống NH
Theo lãnh đạo NHNN, dư nợ tín dụng so với GDP cuối năm 2024 đã lên tới 134%. Nếu tiếp tục phụ thuộc vào tín dụng NH, sẽ tiềm ẩn nhiều rủi ro cho hệ thống và nền kinh tế. Ngân hàng thế giới (WB) và Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) cũng đánh giá Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong mở rộng quy mô thị trường tài chính, song nhấn mạnh nền kinh tế cần một bước chuyển căn bản trong cấu trúc tài chính.
Các tổ chức quốc tế này khuyến nghị Việt Nam thúc đẩy dòng vốn vận hành thông suốt qua các kênh phi NH, như thị trường trái phiếu doanh nghiệp, các quỹ đầu tư, định chế tài chính phi ngân hàng (bảo hiểm, cho thuê tài chính, quỹ tín thác).
Việc đa dạng hóa kênh huy động vốn không chỉ giúp doanh nghiệp có thêm lựa chọn tiếp cận vốn trung và dài hạn, mà còn giảm áp lực cung ứng vốn cho hệ thống NH, qua đó kiểm soát rủi ro hệ thống tài chính hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, sau giai đoạn thắt chặt phát hành trái phiếu doanh nghiệp từ năm 2022, thị trường này vẫn đang trong giai đoạn phục hồi, chưa thể khơi thông nhanh dòng vốn dài hạn qua kênh này. Thị trường chứng khoán dù phục hồi về thanh khoản, song phần lớn giao dịch vẫn mang tính ngắn hạn, thiếu vắng nhà đầu tư tổ chức dài hạn như quỹ hưu trí, quỹ bảo hiểm hay quỹ đầu tư cơ sở hạ tầng.
Hiện có một tín hiệu tích cực là tại Công điện số 128 ngày 6-8-2025, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu Bộ Tài chính khẩn trương khơi thông và phát triển đồng bộ các kênh huy động vốn cho nền kinh tế, từng bước giảm gánh nặng cung ứng vốn trung và dài hạn cho hệ thống NH. Đồng thời, nhanh chóng triển khai lộ trình nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam từ cận biên lên mới nổi, đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế để thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài.
Theo các chuyên gia, Việt Nam cần mở rộng từ trái phiếu doanh nghiệp sang trái phiếu dự án, trái phiếu xanh, chứng khoán hóa tài sản, quỹ tín thác đầu tư bất động sản (REIT)... Song song đó xây dựng nền tảng nhà đầu tư tổ chức vững mạnh, gồm quỹ bảo hiểm, quỹ hưu trí, quỹ đầu tư cơ sở hạ tầng, bởi không thể có vốn dài hạn nếu thiếu nhà đầu tư dài hạn.
Muốn hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng bền vững, giới chuyên gia cho rằng, Việt Nam cần nâng tỷ trọng vốn trung - dài hạn ngoài hệ thống NH lên 30-35% tổng vốn của nền kinh tế. Một hệ thống tài chính cân bằng, trong đó NH đảm nhận vai trò cung ứng vốn ngắn hạn còn thị trường vốn và các định chế phi NH đảm nhận phần vốn dài hạn, chính là chìa khóa giúp Việt Nam phát triển ổn định và vững vàng trước các cú sốc tài chính toàn cầu.
Doanh nghiệp vẫn đang vay NH để đầu tư dự án hạ tầng, nhà xưởng, hay bất động sản, vốn là những lĩnh vực cần vốn dài hạn. Trong khi đó, phần lớn vốn huy động của NH là vốn ngắn hạn. Điều này tạo ra một nghịch lý, vốn ngắn hạn đang nuôi các dự án dài hạn, khiến rủi ro thanh khoản của hệ thống NH cũng gia tăng.