DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC

Bài 2: Khơi thông cơ chế cho ngân hàng có vốn nhà nước

(ĐTTCO) - Các ngân hàng do NHNN quản lý, hiện vẫn giữ vai trò chủ lực trong hệ thống tài chính. Tuy nhiên, cơ chế về huy động nguồn lực tài chính cho các NH này vẫn còn những hạn chế nhất định, cần được khơi thông.

Vai trò chủ lực

Theo thống kê của Vụ Dự báo, thống kê - ổn định tiền tệ, tài chính (NHNN), tính đến thời điểm ngày 31-12-2024, tổng tài sản của 4 NH thương mại cổ phần có vốn Nhà nước (NHTMNN) mà đại diện chủ sở hữu là VietinBank, Vietcombank, BIDV và Agribank đạt gần 9,4 triệu tỷ đồng.

Trong đó tổng vốn chủ sở hữu đạt 598.000 tỷ đồng (tăng gần 84% so với năm 2017), tổng vốn điều lệ đạt 230.000 tỷ đồng (tăng hơn 67% so với năm 2017), tổng dư nợ tín dụng vào cuối năm 2024 chiếm gần 44% tổng dư nợ toàn hệ thống.

Về kết quả kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn của 4 NH nói trên: năm 2024 ghi nhận tổng doanh thu đạt 629.000 tỷ đồng, trong đó lợi nhuận trước thuế là 134.000 tỷ đồng. Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu (ROE) hơn 17,4%, tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên tổng tài sản (ROA) hơn 1,1%.

Cuối năm 2024, 4 NH này đã nộp vào ngân sách 48.000 tỷ đồng, trong đó Agribank 17.400 tỷ đồng, BIDV 9.300 tỷ đồng, VCB 12.000 tỷ đồng và VietinBank 9.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, các DNNN nhóm ngành ngân hàng hiện nay vẫn đang gặp phải một số khó khăn, hạn chế về huy động nguồn vốn.

Theo ông Nguyễn Tất Thái, Phó Vụ trưởng Vụ Dự báo, thống kê - ổn định tiền tệ, tài chính, nguồn lực về vốn và tài sản của 4 NH này thời gian vừa qua chậm được khơi thông do quy định về phân công, phân cấp thẩm quyền quyết định đầu tư, chưa trao quyền tự chủ, người đại diện vốn đối với các quyết định đầu tư lớn, các quy định mang tính rủi ro.

Nhưng không thể chủ động

Thực tế cho thấy, hiện nay mức nợ của nhiều DNNN và hệ số nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu cao, các DN kinh doanh chủ yếu dựa vào vốn vay NH, khi tiềm ẩn rủi ro mất cân đối tài chính tăng lên, khả năng tiếp cận vốn vay sẽ bị thu hẹp.

Đây cũng là khó khăn cho bản thân hệ thống NHTM nói chung cũng như các NHTMNN nói riêng, khi mà áp lực cung ứng vốn cho nền kinh tế đáp ứng yêu cầu phát triển cao trong thời gian tới. Chính vì vậy việc tăng vốn bổ sung cho DNNN nói chung gặp nhiều khó khăn.

Riêng đối với các NHTMNN, việc tăng vốn cho loại hình doanh nghiệp đặc biệt này càng khó khăn. Trong những năm gần đây, vai trò của các NHTMNN trong hệ thống đang có xu hướng giảm dần so với các NHTM cổ phần và các NH liên doanh, chi nhánh NH nước ngoài xét cả về quy mô, vốn điều lệ và thị phần hoạt động.

Ông Nguyễn Tất Thái dẫn chứng, tuy các NHTMNN nắm giữ 42% tổng tài sản của toàn hệ thống tổ chức tín dụng, nhưng quy mô vốn điều lệ lại chỉ chiếm 20%; trong khi các NHTM cổ phần chiếm 45% tổng tài sản, nhưng vốn điều lệ lên tới 65% tổng vốn điều lệ toàn hệ thống. Thị phần huy động vốn của NHTMNN cũng giảm từ 74% năm 2004 xuống còn 46% năm 2024, tương ứng thị phần tín dụng giảm từ 76% xuống còn 46%.

Vốn điều lệ thấp chính là nguyên nhân cản trở hoạt động của NHTMNN trên các mặt như: giảm hệ số an toàn vốn tối thiểu (CAR) theo chuẩn mực quốc tế, hạn chế khả năng cung ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế, làm suy giảm vai trò trụ cột trong hệ thống; hạn chế khả năng tài trợ cho các dự án lớn do vướng quy định về giới hạn tín dụng đối với một khách hàng. Trong khi đó, với mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao, những dự án lớn, quan trọng của quốc gia cần nguồn vốn lớn, ổn định từ các NHTMNN.

Nguồn vốn mỏng cũng dẫn đến hạn chế khả năng dẫn dắt, định hướng thị trường, khi mà các NHTMNN luôn là những NH tiên phong thực hiện kênh truyền tải chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng, hỗ trợ lãi suất… Nếu vai trò của NHTMNN bị lấn át, hiệu quả điều hành chính sách có thể bị suy giảm.

Theo ông Nguyễn Tất Thái, để tháo gỡ những vướng mắc trên về cơ chế huy động nguồn lực tài chính cho các DNNN trong lĩnh vực NH, các cơ quan thẩm quyền sớm ban hành văn bản cụ thể hóa Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại DN, để thực sự trao quyền tự chủ nhiều hơn cho DN và người đại diện vốn nhà nước tại DN (kể cả quyết định kinh doanh, phê duyệt dự án, chế độ tài chính, tiền lương).

Cụ thể hóa các quyền, trách nhiệm, cũng như tiêu chuẩn, chính sách đối với người đại diện phần vốn nhà nước theo Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại DN, để vừa đảm bảo thu hút nhân tài, khuyến khích sự sáng tạo nhưng cũng là cơ sở kiểm tra, giám sát, đánh giá hiệu quả.

Bên cạnh đó, Cần phân định rõ chính sách về quản lý vốn Nhà nước đầu tư tại DNNN theo hướng: quản lý Nhà nước đối với mọi loại hình DN trong nền kinh tế; quản lý theo chức năng đại diện chủ sở hữu vốn của Nhà nước; và quản trị của DN.

Một trong những điểm nghẽn lớn nhất làm giảm vai trò chủ lực, chủ đạo của các NHTMNN hiện nay là do vốn điều lệ thấp, và việc tăng vốn điều lệ của các NHTMNN rất khó khăn.

Các tin khác