Quy định đeo khẩu trang
Theo kênh CNN (Mỹ), ngay khi xảy ra dịch viêm đường hô hấp cấp COVID-19, người dân khắp châu Á lập tức đeo khẩu trang. Nhưng ở phương Tây, vật dụng ngăn ngừa virus này không được sử dụng nhiều. Thậm chí, các quan chức y tế còn coi đeo khẩu trang là không cần thiết.
Tuy nhiên, tình hình đeo khẩu trang ở Mỹ năm 1918, khi đại dịch cúm xảy ra, lại khác hẳn. Đại dịch cúm xảy ra từ tháng 1/1918 tới tháng 12/1920, khiến 1/3 dân số thế giới (500 triệu người) nhiễm virus và 50 triệu người tử vong, trong đó nửa triệu người ở Mỹ.
Tháng 10/1918, khi thành phố San Francisco xảy ra làn sóng thứ hai bùng phát dịch bệnh, các bệnh viện bắt đầu đón ngày càng nhiều bệnh nhân cúm.
Ngày 24/10/1919, Ban Giám sát viên San Francisco (cơ quan lập pháp dân cử của thành phố khi đó) nhận ra cần thực hiện hành động quyết liệt khi có trên 4.000 ca nhiễm cúm. Ban này đã nhất trí 100% thông qua Sắc lệnh Đeo khẩu trang phòng cúm. Lần đầu tiên, người dân Mỹ phải đeo khẩu trang ở nơi công cộng.
Sau khi San Francisco bắt buộc người dân đeo khẩu trang nơi công cộng, một chiến dịch nâng cao ý thức đã bắt đầu. Thị trưởng thành phố cùng các thành viên Ban Y tế đã bảo trợ cho một cuộc vận động của Hội Chữ thập đỏ. Cuộc vận động có những khẩu hiệu như: Đeo khẩu trang và bảo vệ mạng sống. Khẩu trang chống cúm 99%. Nhiều bài hát về đeo khẩu trang đã ra đời. Ai ra ngoài mà không đeo khẩu trang có thể bị phạt tiền, thậm chí phạt tù.
Chiến dịch có hiệu quả và các thành phố khác ở bang California cũng học tập San Francisco, trong đó có Santa Cruz và Los Angeles. Các bang khác khắp nước Mỹ bắt đầu ra quy định tương tự về khẩu trang.
Ở bên kia bờ Đại Tây Dương, nhiều nước cũng áp dụng các bước tương tự Mỹ. Ủy ban Viện hàn lâm Y khoa Paris khuyến nghị đeo khẩu trang ở Paris (Pháp) vào đầu tháng 11/1918. Tiến sĩ Niven, quan chức y tế thành phố Manchester, miền Bắc nước Anh cũng khuyến nghị tương tự.
Khi ngày càng nhiều người đeo khẩu trang khắp châu Âu và Bắc Mỹ, vấn đề nguồn cung xuất hiện. Ở nhiều khu vực tại Mỹ, các nhà thờ, tổ chức cộng đồng và Hội Chữ thập đỏ thường tổ chức lễ tôn giáo và tụ họp, đòi hỏi càng nhiều khẩu trang càng tốt. Trong khi đó, chỉ có một vài nhà sản xuất chuyên làm khẩu trang, như công ty sản xuất Prophylacto ở Chicago, và họ không thể đáp ứng nhu cầu tăng vọt. Nhiều nơi đã dựa vào sản xuất tại chỗ.
Báo chí và chính quyền nhiều bang ở Mỹ gắn chiếc khẩu trang với cuộc chiến đang diễn ra trên chiến trường khắp châu Âu vào tháng 10/1918. Tờ Washington Times ngày 26/9/1918 đã đăng bài viết: “Mặt nạ phòng độc trong chiến hào, khẩu trang phòng cúm ở nhà” và cho biết giới chức Mỹ sẽ cung cấp 45.000 khẩu trang cho binh sĩ Mỹ để phòng chống đại dịch cúm Tây Ban Nha.
Khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất kết thúc ngày 11/11, các nhà sản xuất mặt nạ phòng độc đã chuyển sang sản xuất khẩu trang phòng cúm theo hợp đồng của chính phủ Mỹ.

Luật về đeo khẩu trang phần lớn được người dân ủng hộ và thực thi tự nguyện. Thành phố Tucson ở bang Arizona đã ra sắc lệnh khẩu trang ngày 14/11/1918, theo đó yêu cầu mọi người phải đeo khẩu trang, trừ nhà thuyết giáo, ca sĩ, diễn viên trong rạp hát, giáo viên giảng dạy tại trường – những đối tượng đứng ở khoảng cách xa với người nghe. Cảnh sát trưởng Bailey cho biết ông không định đe dọa bắt giữ ai mà chỉ là yêu cầu cân nhắc tổ chức các cuộc tụ tập đông người, trừ khi người tham gia đều có khẩu trang.

Có một số tiền tệ về hướng dẫn đeo khẩu trang. Trong thời kỷ xảy ra bệnh dịch hạch ở Mãn Châu năm 1910-1911, đeo khẩu trang cũng chứng minh hậu quả phòng bệnh. Nhà báo khoa học Laura Spinney, tác giả cuốn sách xuất bản năm 2017 về đại dịch cúm 1918, viết rằng nhờ kinh nghiệm về bệnh dịch hạch ở Mãn Châu năm 1911 mà người Nhật Bản đã nhanh chóng đeo khẩu trang ở nơi công cộng năm 1918. Giới chức Nhật Bản cho rằng khẩu trang đã hiệu quả trong bảo vệ người dân khỏi mầm bệnh trong các đợt bùng phát dịch bệnh trước đây.