Sau 3 năm chống trọi đại dịch COVID-19 và vượt qua khó khăn, nền kinh tế Việt Nam vẫn đứng vững, từng bước tạo đà tăng trưởng và phát triển.
Tuy nhiên, tại phiên thảo luận Chuyên đề 1 có chủ đề "Tăng cường nội lực, khơi thông nguồn lực, hỗ trợ doanh nghiệp vượt khó" của Diễn đàn Kinh tế-Xã hội Việt Nam năm 2023, các chuyên gia cũng chỉ ra xuyên suốt quá trình thực tiễn, nền kinh tế còn có những vấn đề lớn đặt ra.
Nhiều điểm nghẽn
Tiến sỹ Trần Đình Thiên, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam cho rằng vấn đề đầu tiên là động lực tăng trưởng của nền kinh tế có xu hướng suy giảm liên tục và kéo dài.
Theo ông, quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam đang chứa đựng nghịch lý. Trong đó, doanh nghiệp được cho là giỏi chống chịu và sống dai nhưng lại chậm lớn và khó trưởng thành; nền kinh tế “khát vốn” nhưng lại khó hấp thụ vốn; tăng trưởng GDP cao song lạm phát thấp; lạm phát thấp nhưng lãi suất cao...
Chỉ ra nguyên nhân dẫn đến những nghịch lý trên, ông Thiên cho rằng nền kinh tế ở trong tình trạng ách tắc các nguồn lực, khiến chúng không thể chuyển hóa thành động lực phát triển, dẫn đến “cơ thể” của nền kinh tế bị suy yếu, tổn thương và bất ổn.
Để bảo đảm lưu thông các nguồn lực trong nền kinh tế thị trường, ông Trần Đình Thiên kiến nghị cần hạn chế phân bổ nguồn lực theo cơ chế “xin-cho” và “hành chính.” Ông nhấn mạnh cần ưu tiên thúc đẩy phát triển các thị trường. Đặc biệt là các thị trường “đầu vào,” tạo cơ sở để việc phân phối các nguồn lực diễn ra theo đúng nguyên tắc thị trường (có tính cạnh tranh).
“Các thị trường đầu vào càng đồng bộ, hiệu quả phát triển càng cao,” ông Thiên nói.
Để làm được điều này, Tiến sỹ Trần Đình Thiên thẳng thắn nhấn mạnh Nhà nước cần đảm bảo hạ tầng thông suốt, cơ chế thông thoáng và vận hành thông minh, trong đó trực tiếp hướng tới giải quyết những vấn đề căn cốt đang đặt ra cho cho nền kinh tế Việt Nam ở khía cạnh tạo động lực và giải phóng năng lực phát triển.
“Thời gian gần đây, bên cạnh việc nỗ lực chỉnh sửa-tháo gỡ-thay đổi những trói buộc và cản trở của hệ thống cơ chế, chính sách hiện hành, Đảng và Nhà nước đang rất tích cực nhận diện, định hình 'chân dung mới ' của nền kinh tế theo nguyên tắc hướng tới tương lai, định hướng xây dựng các nguồn lực và động lực phát triển mới,” Tiến sỹ Trần Đình Thiên nói.
Theo ông Thiên, cách lựa chọn đường lối này là đúng đắn và cần phải coi đây là cách thức chủ đạo để xây dựng và phát triển năng lực quốc gia. Việc Chính phủ đưa ra cam kết Việt Nam sẽ đạt mục tiêu “Net Zero” vào năm 2050 tại Hội nghị COP 26 là một minh chứng điển hình cho tầm nhìn và cách tiếp cận phát triển mới của Việt Nam, đi sau những nỗ lực vượt lên tiến kịp thế giới, tiến cùng thời đại.
Tháo gỡ rào cản cho doanh nghiệp
Tổng Giám đốc điều hành Tập đoàn Liên Thái Bình Dương Lê Hồng Thủy Tiên cho biết trong năm 2021-2022, doanh nghiệp Việt rơi vào khó khăn như đứt gãy chuỗi cung ứng, giãn cách xã hội lạm phát tăng cao, giá xăng dầu tăng, cước vận tải tăng. Đến năm 2023, doanh nghiệp lại rơi vào thế bị động khi bị hủy đơn hàng hàng loạt, doanh số sụt giảm do tăng trưởng thương mại toàn cầu xuống thấp. Do đó, cần có những những giải pháp cơ chế, chính sách đột phá giúp doanh nghiệp vượt khó.
Cần có những những giải pháp cơ chế, chính sách đột phá giúp doanh nghiệp vượt khó. (Ảnh: Vietnam+)
“Các cấp quản lý cần dỡ bỏ những rào cản đối với doanh nghiệp, rà soát những quy định thiếu thực tế, không đặt ra những quy định cao hơn khu vực hoặc thế giới hoặc cao hơn mức cần thiết để tránh lãng phí nguồn lực doanh nghiệp,” bà Tiên nói.
Theo bà Tiên, không phải doanh nghiệp muốn “chậm lớn,” mà do còn vướng cơ chế, thiếu chính sách mang tính chiến lược bền vững. Do đó, bà bày tỏ mong muốn các cơ quan của Quốc hội, Chính phủ cùng các chuyên gia, các doanh nghiệp có sự hợp tác chặt chẽ để tạo hành lang pháp lý hợp lý, thông thoáng, tránh “đổ thừa” do cơ chế để doanh nghiệp có thể thực hiện được những gì luật cho phép, thúc đẩy phát triển, đổi mới.
Ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng Thư ký, Trưởng Ban Pháp chế, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho biết các doanh nghiệp Việt Nam đang đối diện với những thách thức to lớn. Trong 8 tháng của năm, tổng số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và tái gia nhập thị trường giảm nhẹ 0,03% so với cùng kỳ năm 2022. Đáng chú ý, số doanh nghiệp “rút lui” khỏi thị trường là 124.700 doanh nghiệp tăng đến 15,6% so với 8 tháng của năm 2022.
“Đây là một chỉ báo quan trọng cho thấy ‘sức khỏe’ của khu vực doanh nghiệp đáng báo động,” ông Tuấn nói.
Theo ông, cập một số rào cản, khó khăn tiêu biểu của các doanh nghiệp Việt Nam gồm: Thứ nhất, chất lượng cơ sở hạ tầng đang cải thiện nhưng hiện vẫn chưa theo kịp nhu cầu phát triển kinh tế. So với những quốc gia, Việt Nam đứng thứ 77 về chất lượng hạ tầng tổng thể, 103 về đường bộ, 83 về cảng, 103 về vận tải hàng không và 87 về cung ứng điện. Các kết quả này nhìn chung kém cạnh tranh hơn khi nhà đầu tư đặt lên bàn cân so sánh với Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Malaysia hay Thái Lan.
Thứ hai, việc tiếp cận các nguồn lực sản xuất kinh doanh cơ bản chưa thực sự thuận lợi. Do đó, ông Đậu Anh Tuấn cho rằng giải pháp quan trọng nhất trong thời gian tới sẽ tăng khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp trong bối cảnh kinh tế khó khăn, đơn hàng suy giảm, tổng cầu trong nước giảm mạnh, kéo theo nhu cầu vốn lưu động và vốn đầu tư thấp của các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, chất lượng lao động, việc tiếp cận đất đai và phải trả chi phí không chính thức là những thách thức khác mà nhiều doanh nghiệp đang gặp phải.
Điểm thứ ba là chi phí sản xuất kinh doanh cao, đang làm giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam và có nguy cơ sẽ bị mất đơn hàng cho các quốc gia khác. Điều này khiến doanh nghiệp không thể đầu tư mới và tình trạng cắt giảm lao động tăng lên. Do đó, ông Đậu Anh Tuấn kiến nghị việc thu hút vốn để tạo đủ việc làm cho nền kinh tế vẫn phải là mục tiêu hàng đầu.
Ông Tuấn cho rằng chất lượng quy định pháp luật và thực thi pháp luật cần tiếp tục được cải thiện. Cũng theo ông, các doanh nghiệp sản xuất nội địa chưa phát triển mạnh mẽ và thiếu cơ chế hỗ trợ hiệu quả. So với các nước khác, doanh nghiệp Việt Nam gặp bất lợi khi chi phí vốn cao hơn và chưa có nguồn hỗ trợ tài chính hiệu quả trong khi lại chịu rào cản để có thể tiếp cận vốn từ các tổ chức tài chính quốc tế.
“Để tăng cường thu hút đầu tư vào các ngành tạo ra nhiều giá trị gia tăng, cần phải có các mức ưu đãi khác nhau đối với các loại sản phẩm khác nhau…,” ông Tuấn kiến nghị.