Có thể nói, các hiệp định thương mại tự do (FTA) là nét chủ đạo trong hội nhập kinh tế quốc tế và xuất nhập khẩu của Việt Nam. Đặc biệt, các FTA nói chung và Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) đã có đóng góp tích cực trong việc hỗ trợ doanh nghiệp mở rộng thị trường xuất khẩu cũng như thêm nguồn cung nhập khẩu.
Thông tin này được ông Trần Thanh Hải - Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) nhấn mạnh tại Tọa đàm "Hiệp định CPTPP - Cơ hội và thách thức tác động đến hoạt động xuất khẩu Việt Nam" do Báo Công Thương tổ chức ngày 28/7, tại Hà Nội.
Theo ông Trần Thanh Hải, CPTPP tạo ra xung lực rất lớn cho hoạt động xuất nhập khẩu. Cụ thể, năm 2021, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 680 tỷ USD, mức tăng trưởng đạt 19%. Đây là mức tăng trưởng hết sức ấn tượng trong bối cảnh dịch COVID-19 đã tác động sâu sắc đến kinh tế thế giới.
Tuy nhiên, đến thời điểm này, khi dịch COVID-19 được kiểm soát, ngoài việc đẩy mạnh xúc tiến thương mại, doanh nghiệp cần chủ động kết nối và giới thiệu sản phẩm của Việt Nam ra thị trường nước ngoài thay vì chờ đợi họ tìm đến tiếp cận như trước kia.
Bà Võ Hồng Anh - Phó Vụ trưởng Vụ Thị trường châu Âu-châu Mỹ (Bộ Công Thương) cho hay năm 2021, xuất khẩu sang khu vực châu Mỹ đạt 113,6 tỷ USD, tăng 26,7%, nhập khẩu 24,9 tỷ USD, tăng 14,1%, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 138,4 tỷ USD, tăng 24,2%. Đây là khu vực thị trường Việt Nam xuất siêu lớn với giá trị xuất siêu khoảng 88,7 tỷ USD.
Xét về cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam tại khu vực châu Mỹ, nhóm hàng điện thoại, máy vi tính, máy móc, thiết bị điện tử chiếm tỷ trọng lớn nhất (43,3%); tiếp đó là dệt may, da giày (25%), gỗ và sản phẩm từ gỗ (8%); nông thủy sản (4%).
Về cơ bản, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu hiện tại phù hợp với định hướng xuất khẩu của Việt Nam, theo đó các mặt hàng công nghệ, mặt hàng công nghiệp chế biến chế tạo chiếm tỷ trọng lớn hơn hẳn so với nhóm hàng nông, thủy sản.
Tuy nhiên, trong tổng giá trị xuất khẩu, đóng góp của khu vực FDI là tương đối lớn. Tỷ trọng hàng hóa xuất khẩu của khu vực công nghiệp nội địa Việt Nam sang thị trường châu Mỹ còn khiêm tốn. Đa số sản phẩm mới chỉ dừng ở gia công lắp ráp cho nước ngoài, giá trị gia tăng chưa cao.
Bà Võ Hồng Anh nêu ví dụ cụ thể với thị trường Canada, nếu tính cả dệt may, da giày, đồ gỗ thì khu vực FDI đóng góp tới gần 80% giá trị xuất khẩu, trong khi sản phẩm dệt may, da giày, gỗ nội thất của doanh nghiệp Việt chỉ chiếm khoảng 5% giá trị xuất khẩu.
Khu vực công nghiệp nội địa đóng góp chủ yếu vào giá trị xuất khẩu với các sản phẩm nhựa, cao su, sắt thép, nhôm, hóa chất, gốm sứ khoảng 11%. Bên cạnh đó, hàm lượng chế biến chủ yếu là sản phẩm thô hoặc đông lạnh dẫn tới giá trị gia tăng của sản phẩm chưa cao, ảnh hưởng tới sức cạnh tranh của sản phẩm.
Xét về nhu cầu thị trường, các nước châu Mỹ, đặc biệt là các nước thành viên CPTPP có nhu cầu tiêu thụ lớn đối với các mặt hàng như dệt may, da giày, đồ gỗ và nông thủy sản.
Thực tế cho thấy sau khi CPTPP có hiệu lực và hàng hóa Việt Nam được hưởng ưu đãi thuế quan, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng này sang khối CPTPP ghi nhận mức tăng trưởng ấn tượng. Điều này đã khẳng định nhu cầu và dư địa thị trường hấp dẫn cho hàng xuất khẩu trong nước.
Bên cạnh đó, các thị trường này cũng còn có nhu cầu lớn đối với các lĩnh vực mặt hàng mới mà doanh nghiệp Việt có thể khai thác như dây cáp điện và các thiết bị điện nhỏ; sản phẩm cao su, sản phẩm nhựa gia dụng, túi nhựa và đồ chơi; sản phẩm giấy và carton; trang sức; cửa nhôm nhựa và cửa sổ cuốn; dược mĩ phẩm hữu cơ và dầu thơm…
Tuy nhiên, xuất khẩu của Việt Nam sang khu vực thị trường này còn gặp trở ngại như khoảng cách địa lý xa xôi, chi phí vận tải cao, thời gian vận chuyển kéo dài cùng các tiêu chuẩn chất lượng cao của các thị trường.
Ngược lại, mức độ nhận thức của các doanh nghiệp nhập khẩu nước bạn đối với chất lượng sản phẩm và năng lực sản xuất của Việt Nam còn thấp. Vì vậy, bên cạnh nâng cao kim ngạch xuất khẩu, doanh nghiệp cần chú trọng nâng cao tỷ lệ nội địa hóa và hàm lượng giá trị gia tăng trong sản phẩm, hướng tới sản phẩm xanh, bền vững, tìm hiểu nhu cầu thị trường với phương châm “không bán cái ta có mà phải bán cái thị trường cần."
Mặt khác, doanh nghiệp cần tập trung vào những mặt như cải tiến công nghệ sản xuất, dây chuyền chế biến, nâng cao hàm lượng gia công, chế tác, đa dạng hóa mẫu mã cũng như quy cách đóng gói sản phẩm… để sản phẩm Việt Nam ra nước ngoài đáp ứng được không chỉ thị hiếu khách hàng mà còn các tiêu chuẩn kỹ thuật, quy định của thị trường nước bạn.
Theo ông Lê Duy Bình - Giám đốc điều hành Economica Việt Nam, chuyên gia kinh tế, sau 3 năm thực thi Hiệp định CPTPP, doanh nghiệp dù có những khó khăn nhưng đã bắt nhịp nhanh với các điều kiện CPTPP mang lại; thể hiện khả năng tích ứng linh hoạt.
Tuy nhiên, quy định về xuất xứ hàng hóa trong CPTPP có nhiều hình thức khác nhau. Vì thế, doanh nghiệp phải có quá trình sản xuất, mua nguyên liệu, canh tác… theo tiêu chuẩn; cũng như đòi hỏi doanh nghiệp sẽ phải tập hợp các hồ sơ chứng từ chứng minh nguồn gốc hàng hóa, chỉ dẫn hàng hóa...
Bên cạnh đó, hạn chế hiện nay chính là thông tin về CPTPP, để đạt ưu đãi thuế quan… còn khá thiếu. Điều này do cách thức cung cấp thông tin từ phía cơ quan quản lý cũng như doanh nghiệp chưa chủ động để tiếp cận nội dung về hiệp định.
Phó giáo sư-tiến sỹ Lương Đức Long - Phó Chủ tịch, Tổng thư ký Hiệp hội Ximăng Việt Nam cho biết hiện nay, thị trường hứa hẹn phát triển trong lĩnh vực vật liệu xây dựng có thể là Chile, Mexico và Peru nhưng khó khăn đối với những thị trường này là vấn đề vận tải do vị trí rất xa.
Bên cạnh đó, chi phí đầu vào của ximăng hiện nay rất lớn khiến giá thành tăng cao, dẫn tới việc bán trong nước và xuất khẩu đều khó khăn. Tuy nhiên, Việt Nam đã từng xuất khẩu ximăng đi hơn 20 nước và CPTPP vẫn là thị trường tiềm năng.
Theo thống kê của Hiệp hội Ximăng, trong tháng 5-6 vừa rồi, lượng xuất khẩu ximăng chỉ bằng 50% so với cùng kỳ năm 2021. Đây là khó khăn chung, ảnh hưởng đến xuất khẩu nói chung và việc xuất khẩu sang các nước CPTPP cũng ảnh hưởng.
Cụ thể năm 2021, tổng lượng xuất khẩu đến khu vực CPTPP chỉ tăng 4,7%, trong đó năm cao nhất là 2018, tổng lượng xuất khẩu đến khu vực này đạt mức tăng trưởng đến gần 21%, tức là con số sụt giảm rất mạnh.
Một khía cạnh khác là do ảnh hưởng của giá xăng dầu tăng, cước vận tải tăng cao càng làm cho việc xuất khẩu trở nên khó khăn hơn.
Để hỗ trợ doanh nghiệp, theo ông Trần Thanh Hải, Bộ Công Thương đã có một chương trình hành động để hiện thực hóa, hỗ trợ cho doanh nghiệp để tận dụng các lợi ích từ các hiệp định thương mại tự do, trong đó có CPTPP.
Tuy nhiên, châu Mỹ rất xa nên ngoài hoạt động xúc tiến mang tính chất trực tiếp, việc xúc tiến trên nền tảng số cũng rất quan trọng nhằm giúp doanh nghiệp khắc phục được sự bất lợi về vấn đề khoảng cách địa lý.
Thời gian qua, Bộ Công Thương cũng triển khai mạnh hoạt động kết nối giao thương cũng như xúc tiến trên nền tảng số và trong thời gian sắp tới cũng sẽ tiếp tục đẩy mạnh hơn.
Ngoài ra, doanh nghiệp cần lưu ý việc đẩy mạnh xuất khẩu sang các nước CPTPP, nhất là khối các nước ở khu vực châu Mỹ, bởi điều này tiềm ẩn nguy cơ dẫn đến các biện pháp phòng vệ thương mại.
Hơn nữa, với những thị trường yêu cầu nghiêm ngặt, tức là nguồn nguyên liệu hoàn toàn phải khai thác, đánh bắt ở trong nước, thậm chí là nuôi trồng ở trong nước, doanh nghiệp phải sử dụng nguồn nguyên liệu thích ứng để đáp ứng tiêu chí xuất xứ, để xuất khẩu sang các thị trường CPTPP hiệu quả và bền vững.