Huy động vàng: Bài toán khó cần được giải đáp

(ĐTTCO) - Chính phủ vừa giao Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chủ trì nghiên cứu việc huy động nguồn lực trong dân (gồm cả vàng và tiền), tạo nguồn vốn phục vụ phát triển kinh tế…

(ĐTTCO) - Chính phủ vừa giao Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chủ trì nghiên cứu việc huy động nguồn lực trong dân (gồm cả vàng và tiền), tạo nguồn vốn phục vụ phát triển kinh tế…

Mới đây, Hiệp hội Kinh doanh vàng Việt Nam (VGTA) cũng đã gửi NHNN kiến nghị thành lập Tổ công tác nghiên cứu xây dựng đề án huy động vàng trong dân, tiến đến thành lập Sở Giao dịch vàng quốc gia. Xung quanh vấn đề này vẫn còn nhiều ý kiến trái ngược nhau, bởi thực tế đề xuất thành lập sàn vàng đã có từ lâu nhưng vẫn không thể thực hiện được. ĐTTC đã có cuộc trao đổi với ông TRẦN THANH HẢI (ảnh), Tổng giám đốc CTCP Kinh doanh và đầu tư vàng Việt Nam, xung quanh vấn đề này.

PHÓNG VIÊN: - Ông có thể cho biết quan điểm về đề xuất huy động vàng trong dân và thành lập Sở Giao dịch vàng quốc gia của VGTA?

Ông TRẦN THANH HẢI: - Trên thế giới, vàng được giao dịch như một loại hàng hóa. Thí dụ tại Hoa Kỳ, vàng được giao dịch trên sàn hàng hóa Comex. Người dân Hoa Kỳ nắm giữ USD, đồng tiền mạnh nhất thế giới nhưng họ không gửi tiết kiệm hết, bởi lãi suất USD rất thấp trong khi lại có sở giao dịch hàng hóa.

Tại đây, vàng, dầu và các hàng hóa đều được quy ra giấy tờ có giá. Vì thế, thay vì giữ USD, họ gửi gắm vào các quỹ đầu tư, quỹ đầu cơ, quỹ hưu trí và các quỹ đó đầu tư vào vàng, chứng khoán, dầu mỏ. Như vậy, sàn giao dịch vàng trên thế giới là một phương tiện để các nhà đầu tư, quỹ đầu cơ, người hưu trí, người có thu nhập vừa phải gửi gắm tài sản để sinh lợi.

Tất nhiên, giá của thị trường tài chính quyết định giá của thị trường vật chất, tức vẫn có rủi ro, đây là luật chơi của thế giới. Nếu chúng ta nghĩ tham gia giao dịch vàng trên sàn Comex ở Hoa Kỳ là “đánh” vàng giấy, không ảnh hưởng đến vàng vật chất, là không đúng. Bởi lẽ, Nam Phi là nước sản xuất vàng lớn nhất thế giới, nhì là Nga, ba là Australia, nhưng cả 3 quốc gia này đều không quyết định được giá vàng, mà giá vàng được quyết định ở bên kia bờ Đại Tây Dương, tức tại Sở Giao dịch hàng hóa của Hoa Kỳ. Do đó, phải hiểu rằng sở giao dịch hàng hóa, trong đó có vàng rất quan trọng.  

Để kiểm soát được việc huy động vàng trong dân, vai trò của NHNN rất quan trọng. Tuy nhiên đây sẽ là vấn đề khó nếu hệ thống quản lý vẫn theo kiểu cũ. Song dù khó nhưng đã đến lúc phải quyết tâm thực hiện. Huy động vàng trong dân phải dùng biện pháp kinh tế để trị kinh tế, không thể dùng duy ý chí trị kinh tế.

Người dân Việt Nam từ bao đời nay đã mang nặng tâm lý sử dụng vàng vật chất. Nhiều chuyên gia đánh giá trong dân có vài trăm tấn vàng, tôi không bình luận về con số này. Nhưng cần phải thấy rằng nhu cầu sử dụng tiền mặt, sử dụng vàng tại Việt Nam còn nhiều, dẫn đến tâm lý người dân gửi gắm niềm tin vào vàng là tất yếu, là suy nghĩ hợp lý và tự nhiên ở một nước đang phát triển như Việt Nam. Như vậy, NHNN trong vai trò của mình cùng với nhiệm vụ đã được Chính phủ giao trong Nghị định 24 là phải tìm cách huy động vàng trong dân. Theo tôi đã đến lúc chúng ta phải bàn cụ thể, phải nhìn vấn đề thực chất để thực hiện. Đối với việc thành lập Sở Giao dịch vàng quốc gia, hiện nay cũng có một số quan điểm không ủng hộ. Song theo tôi cần phải thấy vàng cũng giống như một loại hàng hóa bình thường, nên trong chừng mực nào đó nếu chúng ta kiểm soát được margin (giao dịch ký quỹ), kiểm soát được vàng vật chất, sẽ hạn chế một cách thấp nhất việc vàng rơi vào vòng xoáy đầu cơ.

- Huy động vàng thực tế rất rủi ro. Vậy giải pháp nào để giải quyết các rủi ro đó, thưa ông?

- Đúng là rủi ro lớn nhất của vấn đề huy động vàng ảnh hưởng mục tiêu chống vàng hóa. Sau Nghị định 24, chúng ta đã thực hiện thành công mục tiêu chống vàng hóa. Cụ thể các ngân hàng thương mại (NHTM) chấm dứt việc huy động bằng vàng, cho vay bằng vàng và cho vay bằng tiền đồng quy đổi ra vàng. Theo đó, giá vàng trong nước đã có một thời gian thoát ly giá vàng thế giới và chìm nghỉm xuống. Tuy nhiên, từ bao năm nay vàng luôn gắn bó với đời sống kinh tế-xã hội, đặc biệt trong bối cảnh xảy ra chiến tranh, thiên tai. Chính vì vậy, chúng ta nói chống vàng hóa không phải là loại bỏ vàng trong dự trữ ngoại hối, hay loại bỏ vàng trong đời sống kinh tế-xã hội. Đó là suy nghĩ hết sức thiếu cân nhắc. Khi huy động vàng đừng huy động theo kiểu cũ, đừng để các NHTM huy động hay cho vay bằng vàng, lợi dụng chênh lệch giá vàng thấp với chênh lệch giá tiền đồng để kinh doanh, điều đó cực kỳ rủi ro.  

Đã chống vàng hóa phải chống triệt để, chỉ có một dòng chảy vàng vật chất từ dân vào NHNN và NHNN không bán vàng đó, vì khi bán đi là đối mặt với rủi ro. Người dân gửi vàng vào NHNN nhận lại chứng chỉ vàng và được quyền kinh doanh chứng chỉ vàng trên sàn. Còn vàng vật chất huy động được chỉ dùng để bảo lãnh khoản vay thương mại.

Tôi đã từng phát biểu chúng ta huy động vàng theo một dòng chảy duy nhất, tức vàng chỉ được huy động vào ngân khố của NHNN, trên cơ sở đầu ra là chứng chỉ vàng. Đồng thời, NHNN huy động vàng nhưng không trả lãi. Nói nôm na là giữ hộ vàng cho người dân. Với việc huy động một chiều như vậy, NHNN tập trung được nguồn lực lớn vàng trong dân và có thể đem quỹ vàng này thế chấp để vay trái phiếu chính phủ, vì trái phiếu chính phủ phát hành ra thị trường quốc tế có tài sản vàng đảm bảo chắc chắn lãi suất sẽ thấp hơn. Nếu dòng chảy vàng chỉ vào NHNN, người dân muốn rút vàng ra để mua bán nhà cửa, tái đầu tư có thể rút ra bằng tiền đồng, hoặc có thể giữ chứng chỉ vàng bằng giấy có giá trị tương đương vàng vật chất. Cuối cùng chúng ta vẫn đảm bảo được vấn đề chống vàng hóa, đồng thời thu hút được vàng trong dân và sử dụng đúng mục đích.

 Tuy nhiên, khi giữ vàng trong dân và quy đổi thành tờ giấy, NHNN không bán vì nếu bán sẽ gặp rủi ro khi giá vàng lên. Vàng huy động chỉ đem làm tài sản thế chấp, lúc đó ngân sách quốc gia có một khoản tài sản thế chấp lớn từ người dân trong khi huy động không phải trả lãi.

- Nguyên tắc dòng vốn chảy trong đó có vàng khi luân chuyển sẽ gây áp lực lên tỷ giá và quỹ dự trữ ngoại hối, trong khi tỷ giá dễ biến động và dự trữ ngoại hối hiện khoảng 35-36 tỷ USD, chỉ bằng khoảng 10 tuần nhập khẩu. Như vậy huy động vàng sẽ tác động đến tỷ giá?

- Khi đồng tiền nội tệ không đảm bảo lòng tin của dân chúng và doanh nghiệp, bắt buộc người dân phải tìm đến một kênh trú ẩn là vàng hay ngoại tệ, bất kể Nhà nước có cấm đoán. Do đó, cùng với việc huy động vàng phải tổ chức một sàn vàng đủ quy chuẩn để người dân có sân chơi chính thức, đầu tư vào đó có kiểm soát, khi đó nhu cầu mua ngoại tệ để làm áp lực lên ngoại tệ, hay nhu cầu mua vàng vật chất để làm áp lực lên vàng vật chất không còn nữa. Tôi nghĩ đó là xu hướng lành mạnh và hợp lý.

Ảnh minh họa: LONG THANH

Ảnh minh họa: LONG THANH

- Hơn 2 thập niên qua, giá vàng thế giới liên tục biến động nên việc huy động vàng sẽ rủi ro lớn. Giải pháp nào đề xử lý vấn đề này?

- Như tôi đã nói, khi huy động vàng chúng ta không bán, không làm lệch hay mất trạng thái, huy động chỉ dùng vàng để thế chấp, bảo lãnh trái phiếu chính phủ và các khoản vay thương mại. Gốc vấn đề là ở chỗ đó. Cái đáng lo ngại là việc người dân có đồng tình với việc gửi vàng vật chất để cầm chứng chỉ vàng bằng giấy hay không? Nhưng tôi tin rằng người dân sẽ dần dần quen với việc này. Hiện nay bảo hiểm xã hội đã chuyển sang giao dịch điện tử, sắp tới đây bảo hiểm y tế cũng áp dụng, đổi giấy phép lái xe cũng giao dịch trực tuyến, người dân cũng đã quen và với vàng cũng như vậy. Với việc giữ một cục vàng ở nhà vẫn lo lắng trộm cướp, còn nếu giữ chứng chỉ vàng có số chứng minh nhân dân, trộm vào lấy có thể ra công an báo mất và đến Sở Giao dịch vàng đăng ký lại, tôi nghĩ giữ chứng chỉ vàng là an toàn.

- Lâu nay DOJI đứng ra huy động vàng của người dân và trả lãi. Theo ông  điều này đúng hay sai và có những rủi ro gì?

- Đối với việc huy động vàng của DOJI, xét về Luật Doanh nghiệp họ không sai, vì doanh nghiệp được phép phát hành trái phiếu, nhưng có điều vấn đề này tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. NHNN đã thực hiện thành công đối với các NHTM trong việc cấm huy động và cho vay bằng vàng. Nếu bây giờ một doanh nghiệp cứ huy động và cho vay bằng vàng sẽ trở lại tư tưởng vàng hóa. Người dân có tiền mua vàng gửi vào doanh nghiệp, nếu doanh nghiệp đó phá sản sẽ nguy hiểm vô cùng.

- Xin cảm ơn ông.

 

TS. Bùi Quang Tín,
Trường Đại học Ngân hàng TPHCM:

Khung pháp lý phải hoàn chỉnh

Thực tế không chỉ người dân, nhà đầu tư Việt Nam mà nhà đầu tư trên khắp thế giới đều chọn vàng là 1 trong 3 kênh đầu tư an toàn khi kênh tài chính gặp rủi ro. Đặc biệt người Việt Nam có thói quen ưa chuộng vàng vì đó là truyền thống từ xưa đến nay. Huy động vàng trong dân luôn cần thiết, bởi vàng là yếu tố trong thị trường tài chính. Tuy nhiên, huy động phải được đặt ra trong tổng thể nền kinh tế để phân tích. Do vậy, việc lật lại vấn đề huy động vàng trong dân cũng ẩn chứa nhiều nỗi lo hơn là sự vui mừng.

Trước hết trong đề án huy động vàng trong dân cần lựa chọn thời điểm nào là thích hợp, tiếp đến yếu tố pháp lý phải vững, có căn cứ. Chúng ta có thể căn cứ, tham khảo từ khung pháp lý trên thế giới để so sánh với điều kiện Việt Nam. Được biết, NHNN cùng Bộ Tài chính và một số doanh nghiệp vàng lớn trong nước đã từng tham khảo mô hình kinh doanh vàng ở Thượng Hải, Singapore, Hàn Quốc… vào thời điểm thị trường vàng đang nóng. Không hiểu lý do gì sau khi tìm hiểu, nghiên cứu chúng ta đã bỏ lỡ, có thể chưa phải là thời điểm phù hợp. Trong khi đó điều kiện pháp lý vào thời điểm sàn vàng hoạt động những năm trước khá lỏng lẻo và chủ sàn vàng khi đó là các NHTM, các công ty vàng lớn. Quyền lợi cuối cùng không thuộc về nhà đầu tư mà là các chủ sàn vàng. Do đó nếu thành lập sàn vàng phải xây dựng khung pháp lý chặt chẽ để đặt quyền lợi nhà đầu tư lên trên hết, nêu rõ nghĩa vụ và quyền lợi của người lập sàn vàng, đồng thời phải đặt điều kiện về tài chính đáp ứng thành lập sàn vàng.

Điều quan trọng trong đề án huy động vàng là phải đánh giá được tác động của nó đến chính sách tiền tệ. Vào thời điểm 2008, Chính phủ đã ban hành Nghị định 24 cấm giao dịch vàng vì tác động đến tỷ giá, tiếp đến là lãi suất và cả chính sách tiền tệ lớn của NHNN. Do đó, đề án này cần phải xem xét kỹ lưỡng sự tác động, cũng như đưa ra những cái giải pháp làm sao để kiểm soát được vấn đề tỷ giá. Theo tôi, để đánh giá tính khả thi của việc huy động vàng trong dân phải xét đến 2 khía cạnh. Thứ nhất, cơ sở huy động vàng người dân gửi vào NH thông qua kênh sàn giao dịch quốc gia, hay qua sàn giao dịch kinh doanh vàng, người dân vẫn muốn tính sinh lời như thế nào. Vì gửi vàng có lãi suất vẫn tốt hơn là để ở nhà, còn nếu gửi lãi suất 0% người dân sẽ cân nhắc. Thứ hai, tính an toàn, nghĩa là người dân gửi vào doanh nghiệp được phép huy động vàng nhưng chỉ nhận lại tín phiếu, rõ ràng rủi ro rất lớn. Do vậy trong bối cảnh này, các NHTM dưới sự quản lý của Nhà nước bảo đảm về tính thanh khoản.

Đành rằng huy động vàng trong dân vào nền kinh tế là tốt, nhưng phải xem lại có ảnh hưởng đến tỷ giá, trong khi NHNN và hệ thống NHTM đã mất nhiều thời gian và nỗ lực để giữ ổn định tỷ giá thành công như hiện nay. Nếu quay lại phát triển thị trường vàng, đồng nghĩa với việc phải tiếp tục kiểm soát tỷ giá phi mã và lãi suất bị đẩy lên. Điều lo ngại khác là đầu cơ vàng có tái diễn như giai đoạn 2006-2010, thời điểm sàn vàng chính thức hoạt động và sàn vàng chui phát triển. Điều này làm méo mó chính sách tiền tệ của Nhà nước và người dân chỉ biết lo đầu cơ vàng kiếm lời, đi ngược với tinh thần Nghị quyết 19 và Nghị quyết 35 của Chính phủ muốn người dân đẩy mạnh sản xuất kinh doanh. Nền kinh tế đang cần vốn để sản xuất kinh doanh, nhưng nước ta không thiếu vốn và thiếu thanh khoản đến mức phải huy động nguồn vàng trong dân bằng mọi cách.

TS. Lê Đạt Chí, Trường Đại học Kinh tế TPHCM

Cần phát huy nguồn lực trong dân

Nhiều quốc gia trên thế giới có lượng vàng ước tính trong dân còn lớn hơn Việt Nam rất nhiều và họ từng nghĩ đến việc huy động. Thế nhưng, càng huy động càng thất bại và họ đã thay đổi cách quản lý. Điều này đã đưa đến một nhu cầu cần được làm rõ là những người mua vàng dùng để làm gì? Có ý kiến cho rằng vàng dùng để cất trữ chỉ khoảng 20%, 80% để đầu tư mua đi bán lại nhằm quản trị dòng tiền một cách hiệu quả. Còn các nghiên cứu hàn lâm trên thế giới đã chỉ ra việc nắm giữ vàng với 2 lý do: đây là kênh đầu tư trú ẩn an toàn trước những bất ổn kinh tế trong và ngoài nước và để chống lạm phát. Kinh tế thế giới 10 năm trở lại đây ngày càng bất ổn, tần suất của những bất ổn càng lớn và thời gian ngắn hơn. Đồng thời lạm phát ở Việt Nam luôn chứa đựng những tiềm ẩn. Chính vì vậy việc đầu tư nắm giữ vàng của người dân gia tăng.

Những năm gần đây, nhiều cá nhân có tài sản lớn được sự tư vấn của các ngân hàng đầu tư nước ngoài, cũng như nhiều nhà đầu tư nhỏ dùng tài khoản thẻ tín dụng được các ngân hàng Việt Nam cấp hạn mức để giao dịch tại các sàn giao dịch vàng nước ngoài. Vì thế trong nước mới xuất hiện các sàn giao dịch vàng bất hợp pháp hoạt động. Do vậy đã đến lúc chúng ta phải nhìn thẳng vào thực tế để có cách giải quyết. Tổ chức sàn giao dịch vàng hay hàng hóa sẽ giúp quản lý được dòng tiền và huy động được nguồn lực trong dân, không chỉ là vàng.

 TS. Nguyễn Minh Phong, chuyên gia kinh tế:

Đảm bảo an toàn cho người dân

Tăng huy động nguồn vốn trong dân để phục vụ sản xuất kinh doanh là tốt, song đảm bảo an toàn như thế nào cho người dân là việc cần thiết, phải có sự nghiên cứu phân tích kỹ lưỡng. Các quan điểm đồng ý với đề án huy động vàng trong dân cho rằng không có rủi ro và nếu có lập sàn vàng sẽ đảm bảo được chất lượng vàng. Tuy nhiên, việc huy động vàng trong dân sẽ ảnh hưởng đến tỷ giá vì phải nhập vàng bổ sung, mà nhập vàng sẽ gắn liền với ngoại tệ. Đồng thời, điều gì đảm bảo việc huy động vàng không ảnh hưởng đến đầu cơ. Ai cũng biết vàng cất giữ trong dân sẽ phí, nhưng để đề án huy động vàng trong dân được khả thi cần phải có những đánh giá, phân tích chi tiết, cụ thể. Qua đó xem đề án có đủ các cơ chế để đảm bảo an toàn, chính xác, minh bạch và đảm bảo kiểm soát được hay không.

Phương án khả quan là Nhà nước đứng ra đảm bảo huy động vàng, hoặc có thể chuyển thành vay dân sự bình thường không cần qua Nhà nước cho phép nữa. Bên cạnh đó, chỉ nên cho những nhóm, đơn vị, NH được cấp phép, đủ năng lực, uy tín kinh doanh vàng (đặc biệt là vàng quốc tế) như NHNN và một số NH lớn tham gia vào sàn giao dịch. Hình thức huy động cũng cần được nghiên cứu kỹ để đảm bảo sự an toàn cho nguồn vốn của người dân. Hơn nữa, lập sàn vàng phải là buôn bán vàng vật chất, tránh sàn vàng ảo, có kiểm soát và theo nguyên tắc thị trường. Việc thành lập Sở Giao dịch vàng quốc gia là cần thiết nhưng phải tính đến các điều kiện, tác động cụ thể, đảm bảo việc vận hành thành công. Bởi lẽ, với sự kiểm soát và đảm bảo tính độc quyền từ phía Nhà nước mới tránh xảy ra tình trạng đầu cơ, tạo sóng như trước đây.

Một vấn đề khác là việc huy động vàng chỉ nên hướng tới một số nhiệm vụ, mục tiêu trọng tâm, cụ thể, không nên xem như một hoạt động mua bán theo kiểu đầu cơ vì sẽ làm lệch đi mục đích thành lập ban đầu. Đặc biệt, cần có những chính sách về bảo hiểm, bảo đảm, nếu không có thể sẽ vét rỗng kho vàng của dân hoặc khi kinh doanh thua lỗ, người dân phải gánh chịu.

Xuân Anh (ghi)

Các tin khác