Việc trao đổi hàng hóa, công nghệ và thông tin nhờ quá trình TCH đã cải thiện sâu rộng mức sống và giảm nghèo trên toàn thế giới. Tuy nhiên, ở phương Tây, nơi khởi xướng tiến trình này hiện nay lại là nơi các giá trị TCH đang bị xem xét.
Từ những lo ngại...
Hàng năm, cứ vào tháng Giêng, Hội nghị Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) được tổ chức tại Davos (Thụy Sĩ), tập trung các nhà lãnh đạo quốc gia, các ông trùm tập đoàn, chuyên gia kinh tế cũng như giới báo chí. Họ tới đây để thảo luận về những vấn đề kinh tế hệ trọng của thế giới, nhưng cũng kín đáo trao nhau những cơ hội làm ăn hay trò chuyện về trượt tuyết ở Thụy Sĩ như thế nào trong lúc thưởng thức sâm panh và bánh khai vị. Tuy nhiên, năm nay, mọi chuyện lại khác.
Sự hiện diện của những chai sâm panh hảo hạng không giấu nổi bầu không khí lo lắng và căng thẳng. Các thành viên tham gia WEF được đánh giá như những người đỡ đầu cho xu hướng TCH kinh tế mà nguyên tắc lớn nhất là thúc đẩy dịch chuyển của hàng hóa giữa các nước.
Thế nhưng giờ đây, nguyên tắc này đang bị lung lay bởi hàng loạt sự kiện chính trị lớn. Đầu tiên là việc nước Anh quyết định rút khỏi Liên minh châu Âu (EU) - khối thương mại lớn nhất thế giới. Theo sau là chiến thắng của ông Donald Trump trong cuộc bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ 2016 và việc quốc gia hùng mạnh nhất thế giới toan tính rút khỏi một số hiệp định thương mại chủ chốt.
Tổng thống Trump cũng là người hô khẩu hiệu chủ nghĩa Mỹ (Americanism) mới nên là nguyên tắc phát triển cơ bản, không phải TCH. Tiếp đến, ở Pháp, dù thất bại trong cuộc bầu cử Tổng thống vừa qua, bà Marine Le Pen cũng đã thu hút được sự ủng hộ của không ít người dân nước này, vì quan điểm cho rằng TCH là mối nguy hại đối với nền văn minh phương Tây.
Cơn bão TCH làm nhiều người lo ngại, đặc biệt là người lao động ở các nước công nghiệp phát triển. Do hàng hóa được tự do dịch chuyển với chi phí rẻ hơn, các ngành công nghiệp ở những nước phát triển - nơi lao động "đắt" hơn - được chuyển dịch sang các nước nghèo luôn có sẵn lao động giá rẻ. Vì thế, ở các nước phát triển, người lao động phải chấp nhận mức lương thấp hơn để có việc làm.
Tuy nhiên, hàng sản xuất và nhập từ nước đang phát triển vẫn rẻ hơn hàng họ sản xuất ra trong nội địa. Rõ ràng, các nhà kinh tế ủng hộ xu hướng TCH mới chỉ nghĩ đến vấn đề lợi nhuận, chưa để ý đến các hậu quả chính trị - xã hội của nó. Họ thường lập luận tự do hóa thương mại sẽ có lợi cho cả đôi bên: người tiêu dùng các nước giàu được dùng hàng hóa rẻ hơn, còn các nước nghèo sẽ tăng trưởng kinh tế tốt hơn vì được đầu tư phát triển sản xuất hàng hóa.
... đến phản ứng
... đến phản ứng
20 năm trước, nhà kinh tế học Dani Rodrik thuộc Đại học Harvard (Hoa Kỳ) xuất bản cuốn sách có nhan đề "Liệu TCH có đi quá xa?". Khi ấy người ta cho rằng nội dung của cuốn sách thật lạc điệu. Ít ai ngờ, giờ đây ở một số nước phát triển, người lao động lại bầu cho các chính sách chống tự do thương mại.
Các cuộc khảo sát ở các nước phát triển cho thấy người lao động có tâm lý lo lắng, bất an trong thế giới TCH thương mại. Nhưng tác động của họ đến chính sách có thể chặn hiện tượng TCH lại hay không, không ai có câu trả lời chắc chắn.
Biểu tình chống TCH ở thành phố Seattle, bang Washington (Hoa Kỳ), năm 1999. (Nguồn: AP).
Phong trào chống TCH đã được xướng bởi các lực lượng cánh tả. Ban đầu, vào những năm 1990 chỉ có vài ý kiến nhỏ lẻ phản đối vì cho rằng TCH gây hại nhiều hơn là mang đến những điều tốt đẹp. Càng ngày phong trào này càng trở nên lớn mạnh hơn và tiến tới chỉ trích trực tiếp các tổ chức và sự kiện như Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), hay Hội nghị thượng đỉnh Nhóm các nước công nghiệp phát triển (G7). Các nhà hoạt động của phong trào này làm dấy lên mối quan tâm về tác hại của TCH đối với các nước đang phát triển - nơi TCH được cho đặc biệt có tác động tích cực.
Để phản ứng lại phong trào này, các nhà kinh tế tới tấp cho ra đời những cuốn sách và các bài báo ủng hộ tự do hóa thương mại. Trong cuốn "Bảo vệ TCH", nhà kinh tế học Jagdish Bhagwati viết: “Tự do thương mại mạnh hơn dẫn đến tăng trưởng cao hơn; tăng trưởng cao hơn dẫn đến giảm đói nghèo. Các tác động xấu của TCH đã không làm thay đổi cách nhìn nhận rằng xu hướng này mang đến sự phát triển lợi ích chung cho cả xã hội”. Nhiều nhà kinh tế khác cũng có chung đánh giá TCH là xu hướng tốt nhất hiện nay. Thực tế, từ khi có TCH, nhiều nước đang phát triển đã có sự tăng trưởng vượt bậc, đời sống người dân được nâng cao.
Chủ nghĩa dân tộc có trách nhiệm
Tuy nhiên, gần đây đã xuất hiện một số nhà kinh tế nổi bật thay đổi quan điểm này. Ông Paul Krugman, người giành giải Nobel Kinh tế 2008 về lý thuyết thương mại và địa kinh tế, từng chỉ trích mạnh mẽ những người chống TCH và lập luận là xu hướng này ảnh hưởng rất nhỏ đến mức lương của người lao động ở các nước phát triển, giờ đây ông thừa nhận nhiều số liệu đã chứng tỏ sự thực là tự do hóa thương mại ảnh hưởng tới lương của người lao động ở các nước phát triển nhiều hơn ông dự đoán.
Theo ông Krugman, các cuộc khủng hoảng đồng EUR, giá dầu và một số hàng hóa khác giảm đã ảnh hưởng tiêu cực đến tự do thương mại toàn cầu. Tăng trưởng trao đổi thương mại chững lại, giờ chỉ đạt nửa mức trung bình của giai đoạn 3 thập niên trước. TCH đang mất đi tốc độ của nó. Các thị trường bắt đầu mệt mỏi, không còn nhiều thứ để khai thác. Và thế giới đang chứng kiến sự nổi lên của phong trào hướng tới các chính sách bảo hộ quốc gia.
Một số nhà kinh tế nhận định cơ hội làm ăn ở các nước đang phát triển có phần giảm đi và vì thế, các nước phát triển cần hướng tới chính sách theo "chủ nghĩa dân tộc có trách nhiệm". GS. Đại học Harvard Larry Summers, cố vấn của cựu Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama, từng nhấn mạnh: "Trách nhiệm cơ bản nhất của chính phủ là đảm bảo lợi ích của người dân, không phải là theo đuổi nguyên tắc trừu tượng về lợi ích của toàn cầu".
Có thể nhận thấy TCH - ý tưởng đã làm thay đổi cả thế giới - dường như đang mất đi vị thế vốn có của nó. Ngay cả một số nhà kinh tế từng nhiệt tình ủng hộ xu hướng này cũng bắt đầu thay đổi dần niềm tin của họ. Vậy họ đã sai ở chỗ nào? TCH gây ra “tác dụng phụ” tại các nước phát triển: nhiều người lao động mất việc làm và mức lương không mấy lạc quan. Nếu không có giải pháp cho vấn đề này, tình hình sẽ trở nên tệ hơn, nhất là hậu quả về mặt xã hội: sự hòa nhập về kinh tế dẫn tới sự chia rẽ về xã hội tại các nước này.
(còn tiếp)