Quả ngọt khó kéo dài vì tín dụng hạn hẹp
Những con số được hiển thị trên BCTC cũng như trên thông cáo đến thời điểm này, cho thấy các nhà băng được mùa kinh doanh trong nửa đầu năm. Tính đến hiện tại, Vietcombank đang ở ngôi đầu về lợi nhuận trong ngành, với lợi nhuận trước thuế (LNTT) 17.373 tỷ đồng, tăng 28% so với cùng kỳ. VPBank đứng ở vị trí thứ 2 với mức lãi trước thuế 15.323 tỷ đồng (tăng 69,9%). Techcombank tiếp tục gây ấn tượng với LNTT 14.107 tỷ đồng (tăng 22,3%).
Các NHTM khác cũng lần lượt báo tin vui, như SHB cho biết LNTT 6 tháng đạt gần 5.900 tỷ đồng (tăng 84%), LienVietPostBank đạt 3.588,5 tỷ đồng (tăng 76%, tương đương 74,7% kế hoạch năm), TPBank đạt hơn 3.787 tỷ đồng (tăng 26%), ABBANK đạt 1.632 tỷ đồng (hoàn thành 53% kế hoạch năm).
Nhóm NHTMCP quy mô nhỏ cũng có sự tăng trưởng LNTT trong nửa năm qua. BacABank ghi nhận LNTT 448 tỷ đồng (tăng 2,9% so với cùng kỳ), NH Bản Việt đạt 355 tỷ đồng (tăng 5%) VietBank đạt 387,7 tỷ đồng (tăng 18,9%), PGBank đạt 245 tỷ đồng (tăng 40%), BaoVietBank lãi trước thuế 25,5 tỷ đồng (tăng 51%)…
Lợi nhuận của các NH vẫn đang bứt tốc ấn tượng, nhưng dự báo mức lợi nhuận tuyệt đối của các NH trong 6 tháng cuối năm có thể thấp hơn so với đầu năm. Bởi lẽ quan điểm về tăng trưởng tín dụng của NHNN hiện khá chặt chẽ.
Theo Thống đốc Nguyễn Thị Hồng, NHNN sẽ giữ chỉ tiêu tín dụng định hướng năm nay khoảng 14%, cao hơn mức tăng 13,61% năm 2021 và 12,17% năm 2020. Tính đến 30-6 tín dụng đã tăng 9,35%, cao hơn so với mức tăng của 6 tháng đầu năm 2021 và cả những năm trước đại dịch Covid-19. Điều này đồng nghĩa dư địa tín dụng còn lại cho 6 tháng cuối năm không nhiều, chỉ còn 4,65%.
Từ 2 tháng trước, nhiều nhà băng đã cạn dần room tín dụng do tăng nóng trong các tháng đầu năm. Những năm trước vào khoảng tháng 6, NHNN sẽ nới room tín dụng nhưng năm nay nhà điều hành vẫn chưa có động thái nào, dù NHTM đã lấy lý do thực hiện gói hỗ trợ tín dụng lãi suất 2% để gây áp lực. Trước đó, người đứng đầu NHNN cũng đã nói trước Quốc hội NH nào cũng muốn tăng trưởng tín dụng nhiều, nhưng nếu đáp ứng hết hạn mức mong muốn của các NH, sẽ không ổn định được vĩ mô như hiện nay.
Dư địa thấp cộng với việc NHNN thận trọng trong điều hành để kiểm soát lạm phát, nên khó mong chờ sẽ có room rộng rãi cho tất cả NH. Theo đó, NHNN sẽ xét duyệt tín dụng dựa trên mức độ vốn chủ sở hữu (hệ số CAR), năng lực quản trị rủi ro (tuân thủ các chuẩn mực Basel II, Basel III, IFRS 9...), mức độ hỗ trợ NHNN thực hiện nhiệm vụ chính trị xã hội (miễn giảm lãi suất và phí, cơ cấu lại các TCTD...).
Các NH có hệ số CAR cao và mô hình quản trị rủi ro tốt sẽ có lợi thế trong việc được nới room. Các NH trong diện cảnh báo có tỷ trọng cho vay các lĩnh vực rủi ro như đầu cơ bất động sản, chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp... có thể bị hạn chế room tín dụng để bảo đảm an toàn hệ thống.
Nhiều khó khăn khác
Khi room tín dụng khó được nới rộng, các nhà băng có thể tăng lãi suất cho vay để bù đắp lợi nhuận. Song tỷ lệ thu nhập lãi thuần (NIM) 6 tháng cuối năm có thể bị thu hẹp khi các NH ồ ạt tăng lãi suất huy động. Diễn biến này do tín dụng tăng nhanh nhưng huy động tăng quá chậm. Tốc độ tăng trưởng huy động vốn tính đến 30-6 chỉ đạt 4,51% so với cuối năm 2021, chưa bằng một nửa tỷ lệ tăng trưởng tín dụng 9,35%. Chênh lệch này khiến cuộc đua huy động vốn càng ngày càng nóng.
Trong tháng 7, hàng chục NH đẩy lãi suất huy động lên mức 7-7,55%/năm đối với các kỳ hạn trên 18 tháng, 24 tháng và 36 tháng. Chứng chỉ tiền gửi lãi suất cao cũng có xu hướng sôi động trở lại. SeABank phát hành chứng chỉ tiền gửi kỳ hạn 24 tháng 7,7%/năm và kỳ hạn 36 tháng 7,85%/năm, Sacombank phát hành 3.000 tỷ đồng kỳ hạn 7 năm với lãi suất 7,33%/năm trong năm đầu tiên…
Cùng lúc, tỷ trọng tiền gửi không kỳ hạn trong tổng tiền gửi (CASA) của nhiều nhà băng cũng sụt giảm. Xét về tỷ lệ, Techcombank vẫn giữ ngôi quán quân về CASA trong 6 tháng qua, với 47,5% (tương đương 152.700 tỷ đồng), nhưng đã giảm khi quý trước tỷ lệ này hơn 50%. MSB giảm từ mức 38,33% cuối quý I xuống còn 36,72% cuối quý II. VPBank cũng giảm mạnh đến 2,5% tỷ lệ CASA so với quý trước, xuống 19%.
Điều tương tự cũng đang diễn ra tại nhiều NH khác. Bởi lẽ dòng tiền từ tài khoản thanh toán có xu hướng chuyển sang kênh tiết kiệm có kỳ hạn để hưởng lãi suất cao do các kênh đầu tư như chứng khoán, bất động sản chững lại. Tuy dòng tiền vẫn nằm ở nhà băng, nhưng có lo ngại nó sẽ bị rút khỏi NH để đầu tư sản xuất kinh doanh. Và như vậy, thu nhập lãi thuần của các nhà băng có thể bị thu hẹp, nguồn thu chính cho lợi nhuận sẽ bị tác động.
Điều đáng lưu ý, nợ xấu sẽ tăng những tháng tới do Thông tư 14 về cơ cấu nợ hết hiệu lực vào cuối tháng 6. Theo NHNN, tỷ lệ nợ xấu nội bảng có thể lên tới 7,3%, nếu tính cả các khoản cho vay tái cơ cấu và nợ xấu bán cho VAMC, tương đương mức nợ xấu giai đoạn 2016-2017.
TS. Cấn Văn Lực, Kinh tế trưởng BIDV, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, cho rằng dù nợ xấu nội bảng đang ở mức 1,4%, nhưng nếu Thông tư 14 không được gia hạn, những khoản lẽ ra không phải chuyển nhóm nợ sẽ phải chuyển nhóm, tức nợ xấu sẽ tăng. Dự báo nợ xấu nội bảng 2022 được đẩy lên 2% và nợ xấu gộp khoảng 6%.
Qua BCTC quý II của một số NH, nợ nghi ngờ tại nhiều nhà băng bắt đầu tăng lên. Theo FiinGroup, ngoài những NH đã trích lập sớm, áp lực trích lập sẽ tăng lên với các NH còn lại. Những rủi ro tiềm ẩn với nợ xấu khi thị trường trái phiếu gặp khó khăn cũng là yếu tố cần theo dõi, cộng thêm việc DN bất động sản đang gặp khó sẽ tạo thêm thách thức với tăng trưởng lợi nhuận và chất lượng nợ của các NH.
Các năm trước, dù có nhiều khó khăn nhưng các nhà băng vẫn xoay trở được để cuối năm vẫn tăng trưởng lợi nhuận cao. Song năm nay, với việc tín dụng bị hạn chế, kết quả kinh doanh cuối năm của các NH dự kiến khó hoàn thành được chỉ tiêu lợi nhuận đã đề ra trước ĐHCĐ.
Room tín dụng hạn hẹp đang là trở lực cho hoạt động kinh doanh nửa cuối năm, vì nguồn thu chính của các NH đều đến từ thu nhập lãi thuần, các khoản thu khác rất ít. |