Tăng chi phí cho người dân và doanh nghiệp
Theo Công văn 332, VNBA cho biết việc dự thảo nghị định quy định như nêu tại công văn 2358/BTTTT-NEAC là chưa phù hợp với quy định của Luật Giao dịch điện tử 2023 (luật không cấm). Điều này sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động của các TCTD cũng như làm tăng chi phí cho người dân và doanh nghiệp (DN) khi thực hiện giao dịch điện tử với các TCTD.
Cụ thể, ngay khi Luật Giao dịch điện tử 2023 và dự thảo nghị định có hiệu lực, người dân và DN giao dịch với NH trên môi trường điện tử phải mua chữ ký số của các tổ chức cung cấp chữ ký số công cộng và áp dụng vào các giao dịch trực tuyến với NH sẽ dẫn đến việc tốn kém chi phí cho toàn thể người dân và doanh nghiệp (các chi phí này người dân và DN phải chi trả, NH không thể và không bao giờ chi trả chi phí này).
"Theo ước tính 1 NH có thể phải chi phí lên đến hàng ngàn tỷ đồng hàng năm và sẽ thu lại từ người dân và DN. Do vậy, khi thực hiện, người dân và DN phản ứng, dư luận xã hội lên tiếng do trước khi nghị định có hiệu lực thì họ không phải mất chi phí, nhất là trong bối cảnh hiện nay các DN và thu nhập của người dân còn gặp nhiều khó khăn", VNBA cho biết.
Hiện nay có khoảng gần 80% người Việt Nam trưởng thành có tài khoản NH và nhiều NH đã có trên 95% số lượng giao dịch được xử lý trên kênh số. Nếu theo quy định của dự thảo nghị định, thì các loại nghiệp vụ chủ yếu của tổ chức tín dụng như nhận tiền tiết kiệm, nhận tiền gửi, cấp tín dụng, giao dịch ngoại tệ… đều yêu cầu có chữ ký điện tử khi giao kết giao dịch.
Theo báo cáo của 1 trong 4 NH thương mại có vốn nhà nước, đến thời điểm gửi Công văn 322, số lượng khách hàng giao dịch trên kênh số của NH thương mại có vốn nhà nước này ước tính khoảng 12 triệu khách hàng, với số lượng giao dịch 6,5-7 triệu giao dịch/ngày (cả năm khoảng 2,3 tỷ giao dịch, bình quân 500 giao dịch/giây).
Như vậy, khi dự thảo nghị định có hiệu lực, với mức chi phí khảo sát qua các dịch vụ chứng thực kỹ thuật số công cộng (CA) trên thị trường từ 550.000-1.800.000 đồng/năm, hàng năm khách hàng của NH này phải chi trả dịch vụ CA lên đến từ 6.600-21.600 đồng, chưa kể các chi phí khác phát sinh liên quan đến đầu tư hạ tầng, phát triển, vận hành hệ thống nội bộ cho NH và trang cấp chứng thư số cho cán bộ trong nội bộ.
Còn theo báo cáo của 1 NHTM cổ phần quy mô lớn, đến thời điểm gửi Công văn 322, ước tính có khoảng 10,2 triệu khách hàng, lượng giao dịch trung bình phát sinh khoảng 750 triệu giao dịch tài chính/năm, tương đương trung bình khoảng 500 giao dịch/giây (số lượng giao dịch mà hệ thống có thể phải xử lý trong một giây cũng là số lượng giao dịch tối thiểu mà các công ty CA phải có khả năng xử lý).
Nếu mua chữ ký số theo năm là 800.000 đồng/năm (đơn giá trung bình của các nhà cung cấp CA/Mobile CA), tổng mức chi phí để trang bị chữ ký số cho 10,2 triệu khách hàng là khoảng 8.160 tỷ đồng.
Nếu mua chữ ký số theo giao dịch là 2.500 đồng/lần ký, tổng mức chi phí để trang bị chữ ký số 1.875 tỷ đồng. Chi phí sửa đổi các hệ thống để có thể tích hợp việc sử dụng chữ ký số cũng như lưu trữ các giao dịch đã thực hiện: chưa có con số chính xác nhưng dự kiến sẽ trên 10 triệu USD.
"Đây là mức chi phí vô cùng lớn, nếu tính cả hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) thì hàng năm chi phí này sẽ lên đến bao nhiêu. Ảnh hưởng nghiêm trọng đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của người dân và DN", VNBA đặt vấn đề.
Rủi ro rất lớn cho ngành
Cũng theo VNBA, NHNN yêu cầu các TCTD khi giao kết giao dịch với khách hàng trên môi trường điện tử phải sử dụng chữ ký điện tử, chữ ký số theo quy định của NHNN và của Luật Giao dịch điện tử. Bởi các giao dịch tài chính NH là các giao dịch đặc thù, đòi hỏi sự chính xác cao và đảm bảo giá trị, bảo mật về mặt chứng từ, chứng cứ chứng minh khi phát sinh tranh chấp, tố tụng... Tuy nhiên, theo dự thảo nghị định của Bộ Thông tin và Truyền thông, toàn bộ giao dịch của các TCTD trên môi trường điện tử hoàn toàn phụ thuộc vào 1 hoặc 1 số đơn vị cung cấp chữ ký số công cộng.
VNBA cho rằng, điều quan ngại đặt ra là liệu các tổ chức này có đảm bảo độ bảo mật, sức tải của hệ thống cấp và ký số... có đảm bảo thông suốt an toàn với số lượng giao dịch vô cùng lớn, hàng tỷ, chục tỷ giao dịch/năm (trung bình 500 giao dịch/giây)? Ai sẽ chịu trách nhiệm về hậu quả này khi các giao dịch bị chậm trễ hoặc ngừng trệ? Điều này ảnh hưởng tới mọi mặt của cuộc sống của người dân và DN và của chính TCTD.
Hơn nữa, trên thị trường mới có một số tổ chức được cấp phép về cung cấp chữ ký số an toàn (khoảng trên 10 CA Providers được cấp phép cung cấp chữ ký số an toàn qua hình thức remote signing). Như vậy cũng đồng nghĩa với việc khả năng cao một tổ chức cung cấp chữ ký số công cộng sẽ quá tải, tiềm ẩn rủi ro hệ thống, kéo theo các hệ lụy trong quá trình cung cấp sản phẩm, dịch vụ.
VNBA cho biết đồng tình và ủng hộ hướng tới một xã hội văn minh mỗi người dân nên có 1 chữ ký số sử dụng cho các giao dịch công ích cũng như kinh doanh. Song cần phải xem xét trong bối cảnh thực tiễn từ cơ sở vật chất, hạ tầng công nghệ, mức thích ứng dần của người dân, không làm xáo trộn hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như làm tăng chi phí đột biến cho người dân và DN.
Luật Giao dịch điện tử đã mở ra hướng tạo điều kiện cho người dân được quyền lựa chọn các hình thức trong đó có chữ ký điện tử chuyên dùng bảo đảm an toàn. Khi người dân có mức thu nhập cao hơn, nhận thức và thấy rằng cần thiết phải có 1 chữ ký số cho riêng mình, họ sẽ lựa chọn và quyết định, các quy định dưới luật không nên áp đặt để tăng chi phí cho người dân và DN.