Khi người gửi tiết kiệm sụp bẫy
Người viết bài này may mắn được chứng kiến sự lớn lên của lớp người gửi tiết kiệm biến thành NĐT TPDN trong khoảng 2 năm gần đây. Đó là nhờ có tài khoản tiết kiệm “VIP” ở một ngân hàng (NH) nên được nhân viên chăm sóc “nài nỉ” tham gia cho đủ số lượng tại một buổi giới thiệu cơ hội đầu tư TP chuyển đổi của một DN khai khoáng ngay tại hội trường chi nhánh NH.
Chỉ hơn chục “NĐT” tham dự mà phần lớn có tuổi đời phải trên 60. Tập tài liệu chi chít biểu đồ, bảng số mà rất ít người cố công đọc hết chứ chưa nói đến hiểu. Mối quan tâm chính của những người tham gia lúc đó là lãi suất cao hơn lãi suất tiết kiệm bao nhiêu và những đồ ăn miễn phí. Đó là những chủ tài khoản tiết kiệm lọt vào tầm ngắm của NH với số dư tương đối ổn định và ở quy mô nhất định.
Bẵng đi 2 năm, lần gặp gỡ Tổng giám đốc một Công ty chứng khoán (CTCK) ở Hà Nội, vị này hồ hởi tiết lộ chiến lược phát triển tài khoản NĐT dựa trên logic thú vị: Hàng chục triệu tài khoản tiết kiệm đang nằm im với số tiền khổng lồ có thể được biến thành các tài khoản đầu tư nếu biết cách thuyết phục.
Vì thế chương trình đào tạo nhân viên môi giới và phát triển tài khoản có thêm những kỹ năng liên quan, cộng với việc kết hợp với các NH. Kết quả là số tài khoản mở mới ở CTCK này đã gia tăng chóng mặt chỉ sau vài tháng.
Khi mọi thứ đã vào guồng, thì hiện không khó bắt gặp những người gửi tiết kiệm ngồi tại trụ sở NH hỏi mua, bán một TP nào đó. Các nhân viên NH cũng sẵn sàng phục vụ nhiệt tình.
Cũng chỉ cần dạo qua trang web của các CTCK là thấy hàng loạt các sản phẩm đầu tư TP được chào mời với các lời lẽ hấp dẫn: “Kỳ hạn cố định và linh hoạt phù hợp với mọi NĐT. Lợi tức thực nhận xx.x% và được cam kết mua lại bởi công ty XXX. Được cam kết tạo thanh khoản, khả năng rút vốn linh hoạt...”. Thậm chí còn có những lời giới thiệu đầy thuyết phục như “Cánh cửa mở ra tương lai thịnh vượng cho các cá nhân và gia đình Việt Nam”!
Gần như tất cả các CTCK lớn trên thị trường hiện tại đều đang tung ra những gói dịch vụ đầu tư TP phục vụ đủ loại nhu cầu. VNDS có sản phẩm TP D-Bond, V-Bond; MBS có sản phẩm Abond; SSI có sản phẩm Sbond; TCBS có iBond...
Mặc dù tên gọi khác nhau nhưng điểm chung là các dịch vụ chăm sóc và hỗ trợ đến tận “chân răng” của các tổ chức trung gian phân phối này để khách hàng “gà” nhất cũng có thể mua bán được TPDN.
Một thị trường “hoang dã”
Một thị trường “hoang dã”
Nếu như cách đây 2 năm việc thuyết phục người gửi tiết kiệm quan tâm tới TPDN là cần những nỗ lực lớn, thì hiện tại việc đầu tư TP gần như trở thành mốt. Làn sóng giảm lãi suất “thủng đáy” đang hỗ trợ các chuyên viên NH dễ dàng khuyến khích người gửi tiết kiệm chuyển sang một sản phẩm đầu tư dựa trên TP với lãi suất cố định cao hơn NH.
Khách hàng được hướng dẫn và hỗ trợ tối đa đến mức gần như chỉ ngồi một chỗ và nói ra yêu cầu của mình. Mọi thao tác, thủ tục còn lại đều có người hướng dẫn hoặc làm giúp. Sự tiện lợi của công nghệ 4.0 cũng đơn giản hóa rất nhiều các khâu trung gian.
Mặc dù công nghệ và hỗ trợ tư vấn rất sẵn, nhưng thị trường TPDN vẫn là một thị trường “hoang dã” sơ khai khi đối tượng chính và đang tăng nhanh lại là người gửi tiết kiệm chứ không phải các NĐT thực thụ.
Rất ít TPDN được niêm yết trên TTCK chính thức, phần lớn các sản phẩm đầu tư TP được cung cấp là giao dịch trên thị trường OTC. Thậm chí, các tổ chức trung gian (NH, CTCK) tự tạo ra các thị trường riêng cho khách hàng của mình giao dịch với nhau.
Do đó việc yết giá khó có thể mang tính hiệu quả. Việc mua bán có hợp lý về giá hay không phụ thuộc chủ yếu vào “đạo đức nghề nghiệp” của người môi giới.
Thực tế thông lệ quốc tế TPDN cũng chỉ giao dịch trên thị trường OTC là chính. Tuy nhiên ở thị trường phát triển, TP là lãnh địa của các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp, các quỹ, các NH hay NĐT lớn có nhu cầu đa dạng hóa danh mục.
Đó là nơi mà các tay giao dịch/nhà môi giới đấu trí với nhau thay mặt khách hàng và kinh nghiệm, sự chuyên nghiệp được coi là thước đo sống còn.
Còn thị trường TPDN Việt Nam hiện tại, phần lớn TPDN đến tay người gửi tiết kiệm là TP phát hành riêng lẻ. Chỉ số rất ít NĐT chuyên nghiệp cùng các tổ chức tham gia mua thời điểm phát hành sơ cấp.
Sau đó các tổ chức trung gian cắt lại một phần lãi cho mình và chia nhỏ lô TP đó để đẩy ra thị trường thứ cấp và đến tay người gửi tiết kiệm hoặc các NĐT cá nhân khác. Giá mua bán hàng ngày cũng ở mức lãi suất đã được chiết khấu một phần mà rất hiếm người có thể tính toán được có hợp lý hay không. Con số duy nhất được nhấn mạnh là so với mức lãi suất tiết kiệm và thậm chí đến mức lạm phát cũng bị bỏ qua.
Hầu hết người gửi tiết kiệm biến thành “NĐT TP” không thể phản biện được thông tin từ nhà môi giới vì không đủ kiến thức lẫn kinh nghiệm. Sự “hoang dã” của thị trường này còn là do thiếu hẳn yếu tố định mức tín nhiệm trung gian đối với DN phát hành.
Thật kỳ quặc khi chính tổ chức hỗ trợ phát hành, thậm chí là công ty có liên quan tới DN phát hành lại đi bán chính TP đó. Khi đó, bản chào thông tin sẽ chẳng bao giờ có một vết sạn!