Trong khi đó, tốc độ cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (DNNN) vài năm gần đây không có bước tiến đáng kể. Đã vậy, sự tăng trưởng mạnh của khu vực DN có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) thể hiện xu thế bành trướng, gây áp lực lên khu vực nội địa một cách đáng lo ngại.
Tình trạng nền kinh tế hiện nay nếu nhìn từ góc độ cơ cấu các thành phần rất đáng báo động. Đó là nền kinh tế với cơ cấu thành phần, chiến lược phát triển có vấn đề: phân biệt đối xử, không tôn trọng nguyên tắc thị trường; xác định vai trò, chức năng của các lực lượng kinh tế sai lệch kéo dài, làm méo mó môi trường kinh doanh thông qua các chính sách thiên lệch.
Lệch pha kinh tế thị trường
Lệch pha kinh tế thị trường
Thực chất cho đến nay chúng ta mới quan tâm đến việc thành lập nhiều DN, nhưng chưa có cách tiếp cận phát triển lực lượng DN Việt. Đây là hậu quả của cách tư duy phát triển DN trong nền kinh tế thị trường (KTTT) nhưng không hiểu đúng, và không tôn trọng các nguyên lý nền tảng, cốt lõi của KTTT. Điển hình như chủ trương phát triển KTTT nhưng không chú trọng, quan tâm phát triển các thị trường, đặc biệt là thị trường các nguồn lực; không coi trọng phát triển khu vực DNTN đúng kiểu thị trường…
Thừa nhận KTTN là động lực phát triển quan trọng, thay đổi quan niệm cổ phần hóa DNNN, chuyển nó thành quan niệm “tư nhân hóa” và xúc tiến đẩy nhanh quá trình này. |
Nguyên nhân do nhận thức về KTTT chậm thay đổi, nặng tính thiên kiến, chủ quan; không định hướng phát triển các thị trường và các lực lượng thị trường đúng nghĩa làm nhiệm vụ chiến lược trung tâm, ràng buộc sự phát triển thị trường bằng quan điểm “giữ vững định hướng XHCN” nhưng không có tiêu chuẩn và tiêu chí đánh giá cụ thể, cơ bản vẫn bảo thủ, giáo điều về vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế, về vai trò, vị trí của các thành phần kinh tế.
Kéo theo đó là định hướng chiến lược phát triển các lực lượng thị trường sai lệch nghiêm trọng - kỳ thị, phân biệt đối xử đối với các lực lượng thị trường quan trọng nhất, kéo dài áp dụng cơ chế phân bổ nguồn lực do Nhà nước quyết định, phủ nhận nguyên lý cạnh tranh thông qua việc áp dụng các chính sách phi thị trường (xin-cho, bình quân). Chúng ta áp dụng quá lâu hệ thống khuyến khích ngược, trong khi vẫn muốn phát triển KTTT. Đó là việc phân bổ nguồn lực theo nguyên tắc “chọn người thắng”, ngược với nguyên tắc “khuyến khích người thắng”.
Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam (1991-2018) suy giảm liên tục.
Chính vì vậy các chủ thể kinh tế yếu thế mà nổi bật là KTTN, các DNNVV bị “mặc kệ phát triển”, thực chất là loại ra khỏi cuộc chơi dựa trên nguyên tắc xin-cho.
Trong tổng thể nguyên nhân, cần nhấn mạnh đó là việc duy trì quá lâu cách tiếp cận chính sách mang tính phân biệt đối xử đối các thành phần - khu vực kinh tế, không đặt KTTN nói chung, các tập đoàn tư nhân lớn nói riêng đúng vai trò chức năng trong cơ cấu lực lượng phát triển khi tiến hành cạnh tranh toàn cầu và phát triển kinh tế hiện đại.
Trong tổng thể nguyên nhân, cần nhấn mạnh đó là việc duy trì quá lâu cách tiếp cận chính sách mang tính phân biệt đối xử đối các thành phần - khu vực kinh tế, không đặt KTTN nói chung, các tập đoàn tư nhân lớn nói riêng đúng vai trò chức năng trong cơ cấu lực lượng phát triển khi tiến hành cạnh tranh toàn cầu và phát triển kinh tế hiện đại.
Trong khi đó kéo dài ưu đãi phi thị trường quá lâu đối với khu vực FDI, gây méo mó hệ thống ngày càng nghiêm trọng. Và khi kéo dài sự tồn tại kém hiệu quả sẽ gây hại cho sự phát triển KTTT, trong khi cơ chế ngân sách mềm xin-cho làm cho bộ máy không chịu trách nhiệm. Đây chính là nguồn gốc của lãng phí các nguồn lực quốc gia.
Tư duy chia đều, “dàn hàng ngang lấn át cách tiếp cận theo chức năng cơ chế “đầu tàu” giống “toa tàu”, chiến lược “quả mít” thay nguyên lý “cực tăng trưởng” khi có quá nhiều khu công nghiệp, khu kinh tế, vùng kinh tế trọng điểm…
Cùng với đó, chậm chuyển quan hệ phân cấp, phân quyền trung ương - địa phương sang nguyên tắc thị trường. Phân cấp nhưng ít phân quyền, thực chất là không phân chia và chậm trao quyền ngân sách theo chức năng giữa 2 cấp, làm địa phương không thể chủ động phát triển, phân bổ và sử dụng các nguồn lực, nhất là ngân sách và nhân lực bộ máy một cách hiệu quả.
Trong gần 10 năm trở lại đây (từ năm 2011), chương trình “ba đột phá chiến lược” và “tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng” tiến triển rất chậm. Cải cách khu vực DNNN hầu như không có những bước tiến cơ cấu thực chất. Tái cơ cấu đầu tư và hệ thống tài chính - ngân hàng vẫn ì ạch. Cải thiện môi trường kinh doanh đã diễn ra chậm, chỉ đạt được những kết quả cục bộ, ít có giá trị xoay chuyển cơ cấu, chậm tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng, thông thoáng cho các chủ thể kinh tế.
Số lượng nhiều nhưng chất lượng quá ít
Thực ra KTTN có sức tăng trưởng công nghiệp cao nhất, là yếu tố quan trọng giúp nền kinh tế phục hồi, hoặc ít nhất cũng không bị suy giảm trong giai đoạn 2008-2009. Sự phát triển của KTTN góp phần nâng cao tính cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế, tạo mầm cho một thế hệ doanh nhân mới của Việt Nam. KTTN tạo ra 85% việc làm, có vai trò gần như quyết định ổn định xã hội.
Số lượng nhiều nhưng chất lượng quá ít
Thực ra KTTN có sức tăng trưởng công nghiệp cao nhất, là yếu tố quan trọng giúp nền kinh tế phục hồi, hoặc ít nhất cũng không bị suy giảm trong giai đoạn 2008-2009. Sự phát triển của KTTN góp phần nâng cao tính cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế, tạo mầm cho một thế hệ doanh nhân mới của Việt Nam. KTTN tạo ra 85% việc làm, có vai trò gần như quyết định ổn định xã hội.
Đang tồn tại sự không bình đẳng giữa DNNN và DNTN trong tiếp cận vốn đầu tư. Phần lớn chi ngân sách nhà nước (khoảng 90%) dành cho DNNN thông qua việc cấp tín dụng trực tiếp để tăng vốn hàng năm. Trong khi đó, DNTN có số lượng lớn hơn nhiều phải tự cạnh tranh nhau trong tiếp cận tài chính trên hệ thống ngân hàng. |
Tuy nhiên, có những vấn đề đáng lo ngại về xu hướng phát triển của DNTN Việt Nam: Tỷ lệ DN có đóng thuế thu nhập DN trên tổng số DN hoạt động giảm mạnh, từ 60-70% năm 2010 xuống còn trên 30% năm 2015-2016.
Tỷ lệ lợi nhuận trước thuế so với tài sản cố định và đầu tư dài hạn của các DN có xu hướng giảm đối với tất cả thành phần. Cụ thể, năm 2010 tỷ lệ này ở DN FDI, DNNN và DN ngoài nhà nước tương ứng 16%, 7% và 5%, đến năm 2015 giảm xuống còn 12%, 3% và 4%.
Số DN thành lập trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo không nhiều, thường thấp hơn đáng kể số DN thành lập trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản. Thí dụ, 10 tháng năm 2017, số DN đăng ký thành lập mới trong công nghiệp chế biến, chế tạo chỉ tăng 8,6% so với cùng kỳ năm trước, trong khi lĩnh vực bất động sản tăng 62,5%. Tỷ lệ lợi nhuận trước thuế so với tài sản cố định và đầu tư dài hạn của các DN có xu hướng giảm ở tất cả thành phần. Năm 2010 tỷ lệ này của DN FDI, DNNN và DN tư nhân tương ứng 16%, 7% và 5%; năm 2015 giảm xuống còn 12%, 3% và 4%.
Các số liệu về tương quan đầu tư và thương mại giữa các TPKT ở Việt Nam năm 2018, minh họa cho nhận định của bài viết nói trên.
Số DN giải thể hoặc phải ngừng kinh doanh trong những năm gần đây bình quân 60.000-80.000 DN/năm. Năm 2018, số lượng DN giải thể hơn 90.000. Nguyên nhân do DN nhiều nhưng không theo kịp xu thế toàn cầu. Các DN chỉ tập trung phục vụ người tiêu dùng, trong khi tỷ trọng phục vụ sản xuất chế biến chế tạo chỉ đạt khoảng 15%. Sự liên kết với các mạng sản xuất toàn cầu của DNTN cũng rất yếu.
Thực chất DNTN nhiều nhưng theo xu hướng “li ti hóa”. Năm 2001, số DNTN quy mô vừa và lớn (sử dụng từ 100 lao động trở lên) chiếm 6%, năm 2013 chỉ còn 3%. Những năm gần đây năng suất lao động của DNTN thuộc nhóm vừa và lớn thậm chí còn thấp hơn so với các DNTN quy mô nhỏ.
Các yếu tố ảnh hưởng tới sự phát triển của khu vực KTTN có nhiều nguyên nhân giải thích thực trạng yếu kém, trong đó nguyên nhân chính là thiếu vắng một hệ chính sách nhất quán phù hợp. Sự méo mó các thiết chế nhà nước, cải cách kinh tế diễn ra theo hướng không tôn trọng các quy tắc của KTTT, vận hành nền kinh tế chủ yếu dựa trên nền tảng quan hệ thân hữu, tham nhũng... đồng nghĩa DNTN không có môi trường tốt để phát triển.
Ngay trong từng khu vực DN cũng có sự phân biệt đối xử, khi DN FDI và DNTN quy mô lớn thường có quan hệ được đối xử có lợi hơn nhiều so với các DNNVV. Sự phân biệt đối xử diễn ra thường xuyên hơn vào thời kỳ nền kinh tế gặp khó khăn. Mối quan hệ không bình đẳng này tác động tiêu cực tới sự phát triển của các ngành kinh tế.
Đổi mới tư duy, định hình quan điểm mới
Đổi mới tư duy, định hình quan điểm mới
Việt Nam đã vươn lên, trở thành nền kinh tế thu nhập trung bình thấp, có mặt bằng xuất phát cao hơn, với các điều kiện và năng lực mới. Chúng ta cũng đã cam kết hội nhập quốc tế đẳng cấp cao với những đối tác chiến lược lớn (Mỹ, Nhật Bản, Canada, Australia, EU, Hàn Quốc).
Các điều kiện cam kết ở tầm cao, phạm vi rộng, toàn diện, ràng buộc chặt chẽ về thời gian, với các yêu cầu thực thi nghiêm ngặt. Trong các điều kiện này, yêu cầu phát triển các lực lượng thị trường (hay các khu vực kinh tế) ràng buộc theo tiêu chuẩn của nền KTTT hiện đại.
Vì thế, cần thay cách tiếp cận quan điểm “thành phần kinh tế” sang cách tiếp cận “khu vực kinh tế”, vừa giúp thoát khỏi thiên kiến phân biệt đối xử, kỳ thị, trái với nguyên tắc thị trường, vừa bảo đảm yêu cầu thống nhất trong hội nhập quốc tế; tạo cơ sở lý luận cho việc xây dựng các chính sách phân bổ nguồn lực công bằng, hiệu quả và tạo môi trường kinh doanh bình đẳng.
Chuyển từ lập trường “phân biệt đối xử” (khác biệt về tư cách, không rõ về chức năng, không tự do cạnh tranh) của các thành phần kinh tế sang lập trường bình đẳng (bình đẳng về tư cách, khác biệt về chức năng, tự do cạnh tranh), trên cơ sở định vị đúng chức năng của mỗi khu vực kinh tế.
Thúc đẩy phát triển nhanh, đồng bộ các thị trường, đặc biệt là các thị trường đầu vào (đất đai, năng lượng, vốn, lao động, công nghệ), coi đây là điều kiện tiên quyết để có nền KTTT lành mạnh và hiệu quả. Sửa luật để thừa nhận các quyền tài sản cho các chủ thể, trọng tâm là quyền đối với đất đai. Đẩy nhanh xây dựng các thị trường cạnh tranh như thị trường điện. Xây dựng lại cơ chế tiền lương dựa trên năng suất lao động; phân định rạch ròi cơ chế tiền lương - tiền hưu và các khoản trợ cấp xã hội. Thay đổi cơ chế thương mại qua biên giới với Trung Quốc theo hướng chính quy hóa (chính ngạch) và phát triển sản phẩm chiến lược.
Đặc biệt, xác định cụ thể nội hàm “định hướng XHCN” trong phát triển KTTT hiện đại (công nghệ cao, kinh tế số, toàn cầu hóa), cốt lõi là xác định đúng quan hệ chức năng giữa Nhà nước - Thị trường - DN. Tổ chức bộ máy theo chức năng, đề cao chế độ chịu trách nhiệm cá nhân (thủ trưởng) và nguyên tắc hợp đồng. Nhấn mạnh tính chuyên nghiệp (năng lực chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp). Bỏ cơ chế tuyển biên chế dựa vào chứng nhận bằng cấp, tuyển người và trả lương theo việc.
Cần chiến lược cho DN Việt
Cần nhận diện chính xác xu hướng và bối cảnh phát triển mới (toàn cầu hóa, CMCN 4.0, xung đột phát triển) và tác động của chúng đến xu hướng phát triển các lực lượng kinh tế, đặc biệt là các DN, trong giai đoạn tới. Theo đó, khẩn trương xây dựng khung pháp lý nền tảng cho sự phát triển cuộc CMCN 4.0. Mọi lĩnh vực, mọi ngành nghề đều có thể đổi mới, áp dụng những thành tựu công nghệ mới, trí tuệ nhân tạo.
Do vậy, việc cần thiết và có tính quyết định là phải xây dựng, ban hành được hệ thống pháp lý cho các lĩnh vực mới. Các bộ, ngành, hiệp hội nghề nghiệp, địa phương, đề xuất chương trình kế hoạch hành động, nêu khuôn khổ pháp lý. Chính phủ, Quốc hội tổng hợp thành chương trình hành động quốc gia và chọn lựa các vấn đề xây dựng hệ thống văn bản pháp luật cần thiết, tạo thành môi trường pháp lý để triển khai.
Xây dựng chiến lược phát triển DN Việt cho giai đoạn phát triển mới, với nền tảng là DNTN và trục cốt lõi là các tập đoàn kinh tế. Định vị theo đúng nguyên tắc thị trường - hiện đại vai trò chức năng của từng thành phần - lực lượng kinh tế. Không để thiên kiến “tư cách chính trị” đối với các thành phần kinh tế chi phối quá trình ra chính sách.
Xây dựng chiến lược phát triển DN quốc gia, trong đó thừa nhận và bảo đảm bằng luật, sự bình đẳng của các khu vực kinh tế trong các chính sách, cơ chế quản lý và ứng xử. Bảo đảm bằng luật các chế tài cụ thể đối với mọi sự xâm phạm quyền tự do kinh doanh của các chủ thể kinh tế được làm tất cả những thứ Nhà nước không cấm.
Coi khu vực DNTN là nền tảng của phát triển KTTT, với các tập đoàn KTTN, cốt lõi là tập đoàn kinh tế Việt Nam làm trụ cột. Nhanh chóng thay đổi chiến lược thu hút đầu tư nước ngoài. Nhà nước hỗ trợ công cuộc khởi nghiệp dựa trên đổi mới - sáng tạo, theo các chuẩn mực quốc tế cao. Thiết lập và phổ cập bắt buộc tiêu chuẩn quản trị DN châu Âu cho DN Việt Nam theo lộ trình rõ ràng và chế tài chặt chẽ.
Xây dựng lại chiến lược thu hút và sử dụng đầu tư nước ngoài, kết hợp chiến lược thu hút FDI, với thu hút đầu tư nước ngoài gián tiếp (FII), được định hướng bởi các mục tiêu phát triển quốc gia cho đến năm 2045, phù hợp với tinh thần đẩy mạnh CMCN 4.0, chuyển nhanh sang nền kinh tế số…