Lạm phát 2018 trong tầm kiểm soát

(ĐTTCO) - 6 tháng đầu năm 2018, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đã liên tục có mức tăng cao so với các tháng trước. 
Nhiều chuyên gia cảnh báo cần phải hết sức lưu ý và theo dõi diễn biến của CPI để có thể kiểm soát lạm phát như mục tiêu đề ra. Xung quanh vấn đề này, ĐTTC có cuộc trao đổi với TS. TRẦN DU LỊCH (ảnh), thành viên Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ.
PHÓNG VIÊN: - Thưa ông, CPI 6 tháng đầu năm 2018 tăng 3,29% so với cùng kỳ năm trước. Kết quả này có làm gia tăng thêm áp lực đối với mục tiêu kiểm soát lạm phát cả năm 2018 ở mức 4% được Quốc hội đề ra trước đó?
Lạm phát 2018 trong tầm kiểm soát ảnh 1
TS. TRẦN DU LỊCH: - Đúng là theo số liệu của Tổng cục Thống kê, CPI tháng 6-2018 tăng 0,61% so với tháng trước, tăng cao nhất trong 7 năm qua. CPI bình quân 6 tháng đầu năm 2018 tăng 3,29% so với bình quân cùng kỳ năm 2017. Tuy nhiên, lạm phát cơ bản tháng 6-2018 tăng 0,1% so với tháng trước và tăng 1,37% so với cùng kỳ năm trước. Lạm phát cơ bản bình quân 6 tháng đầu năm 2018 tăng 1,35% so với bình quân cùng kỳ năm 2017.
Ở đây cần phân biệt sự khác nhau của CPI và lạm phát cơ bản. CPI 6 tháng đầu năm do chịu tác động của nhiều yếu tố như tăng giá lương thực, xăng dầu, dịch vụ công. Quốc hội giao chỉ tiêu không quá 4% so với năm trước là chỉ tiêu CPI.
Trước đây, CPI được tính so với tháng 12 năm trước, nhưng hiện nay chúng ta tính CPI bằng bình quân cả năm so với cùng kỳ. Do đó không có nghĩa hiện nay CPI tăng 3,29%, thì phần còn lại trong mục tiêu 4% là mức còn lại của 6 tháng cuối năm vì bình quân mỗi tháng có thể thay đổi. 
Trong điều hành kinh tế vĩ mô, chúng ta quan tâm nhiều đến lạm phát cơ bản, tức là yếu tố tiền tệ không bao gồm yếu tố bên ngoài. Thật sự lạm phát cơ bản ở mức như vậy không phải là cao, có thể kiểm soát được, nên cũng không lo lắng nhiều về lạm phát cơ bản.
Bởi NHNN cũng không nới lỏng chính sách tiền tệ, tăng nóng tín dụng. Còn lại vấn đề tỷ giá, dù đang xoay quanh mức 23.000 đồng/USD, nhưng NHNN cũng đang can thiệp để không xảy ra biến động mạnh. Vì vậy không nên quá lo lắng để gây ra yếu tố tâm lý, vì lạm phát còn chịu tác động từ yếu tố tâm lý.
Về phía Chính phủ, vấn đề quan trọng trong 6 tháng cuối năm cần phải tập trung chủ yếu vào việc kiểm soát giá dịch vụ công, không để tăng giá như điện, y tế, giáo dục… để bảo đảm lạm phát ở mức dưới 4%. Dĩ nhiên điều này cũng đã được Chính phủ dự liệu.
- Gần đây xuất hiện một số lo ngại chu kỳ lạm phát tăng cao như 10 năm trước, ý kiến của ông như thế nào?
- Tôi cho rằng không có chu kỳ này. Bởi những yếu tố biến động về giá cả trong giai đoạn lạm phát cao, và nền kinh tế suy giảm tăng trưởng của những năm 2010-2011 (gọi là “kỳ lạm”), mới xuất hiện nguy cơ để lo lắng. Còn hiện nay kinh tế tăng trưởng tốt 7% thì không có yếu tố “kỳ lạm”, nên không đáng lo ngại.
Thật sự năm nay tăng trưởng kinh tế quý III, quý IV không bằng quý I và quý II năm trước, nhưng cũng ở mức như Chính phủ dự báo là 6,7-6,8%, còn CPI cố gắng kiểm soát dưới 4% so với cùng kỳ. Các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô như vậy là đạt được. 
Đồng thời, 6 tháng cuối năm cũng chưa thấy có yếu tố nào biến động lớn. Các kịch bản điều hành của Chính phủ cũng dự liệu những yếu tố có thể có biến động lớn, và cho đến nay những dự báo đưa ra hoàn toàn có thể kiểm soát được các vấn đề vĩ mô.
Vì vậy tôi cho rằng, CPI và lạm phát 6 tháng tăng là vấn đề cần phải cảnh báo, nhưng cho tới thời điểm này cũng không có yếu tố nào vượt mức kiểm soát của Chính phủ, cũng chưa có dấu hiệu nào cho thấy sẽ có nguy cơ lạm phát cao như nhiều năm trước.
- Trong kịch bản điều hành, Chính phủ đưa ra những giải pháp nào để ứng phó với lạm phát, thưa ông?
- Thứ nhất về yếu tố tiền tệ, vẫn kiểm soát tín dụng ở mức 17% theo mục tiêu đề ra. NHNN cũng đang siết tín dụng đối với những lĩnh vực rủi ro để không tăng tín dụng đột biến. Bên cạnh đó, NHNN thực hiện nhiệm vụ ổn định được tỷ giá. Đó là công cụ để kiểm soát lạm phát.
Thứ hai về điều hành, Chính phủ không điều chỉnh giá dịch vụ công như giá điện, y tế, dịch vụ…
Thứ ba xây dựng kịch bản về vấn đề mới là chiến tranh thương mại. Bởi lẽ điều này sẽ ảnh hưởng đến thị trường và tâm lý thị trường, nên những kịch bản ứng phó vấn đề chiến tranh thương mại đang diễn ra giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ đang được thực hiện. 
 Có thể nói, rủi ro lớn nhất về vĩ mô trong những tháng cuối năm là tác động từ chiến tranh thương mại Hoa Kỳ và Trung Quốc. Hiện nay, đồng Nhân dân tệ giảm giá, ảnh hưởng nhập khẩu thương mại. Mặc dù chưa có biến động gì trong thương mại, nhưng đây là điều phải lo vì khi có sự thay đổi cán cân thương mại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, sẽ tác động đến Việt Nam, nên cần phải tính toán. 

 Tỷ giá gây nhiều áp lực trong điều hành

Về yếu tố bên ngoài, giá hàng hóa nhiên liệu đã tăng khá nhanh, như giá dầu brent từ đầu năm tới nay đã tăng trên 24%. Về yếu tố nội tại bên trong, năm nay dự kiến Việt Nam cũng sẽ tiếp tục lộ trình điều chỉnh giá một số mặt hàng cơ bản. Cuối năm ngoái giá điện đã được điều chỉnh tăng, sang năm nay giá xăng dầu cũng điều chỉnh theo và tháng 5 vừa rồi điều chỉnh 2 lần, một số mặt hàng khác khác như y tế giáo dục cũng sẽ được điều chỉnh tăng.
Trong khi đó, áp lực đối với tỷ giá cũng ở mức độ cao hơn so với năm ngoái. Năm ngoái đồng USD đã mất khoảng gần 10%, nhưng từ đầu năm tới nay đồng tiền này đã tăng hơn 2%, điều này tạo ra áp lực đối với tỷ giá USD/VNĐ. Việc Hoa Kỳ tiếp tục tăng lãi suất cũng như tăng trưởng của các nền kinh tế lớn nhất thế giới tương đối khả quan, sẽ kéo theo khả năng USD tăng giá thay vì mất giá như năm ngoái, gây áp lực cho VNĐ. Do đó, năm nay nếu chúng ta giữ được lạm phát ở mức 4% là thành công. 
Tuy nhiên, để duy trì được mức lạm phát mục tiêu chúng ta sẽ phải rất quyết liệt, như tiến độ tăng giá một số mặt hàng phải xem xét để có lộ trình phù hợp, phối hợp giữa chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa, giá cả để đảm bảo CPI không tăng nhanh và bùng phát vào những thời điểm như cuối năm.
Trong bối cảnh hiện nay, khi lạm phát tăng lên sẽ khiến cho việc giảm lãi suất cho vay khó khăn hơn. Nguyên nhân do lãi suất đồng USD tại HoaKỳ tiếp tục tăng lên, trong nước thì áp lực lạm phát khá lớn, nhu cầu huy động vốn của nền kinh tế để hướng đến mục tiêu tăng trưởng tín dụng đạt 17% nên rất khó giảm lãi suất đầu vào. Điều này khiến giảm lãi suất đầu ra khó khăn hơn.

TS. CẤN VĂN LỰC, chuyên gia Kinh tế


Các tin khác