Vì sao lãi suất cho vay quá cao?
Ngày 22-6, Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính Việt Nam (VAFI) gửi kiến nghị lên Thủ tướng, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước,... đề ra đề xuất hạ dần lãi suất tiền gửi VND về mức 0%/năm.
Theo VAFI, hiện nay các nền kinh tế phát triển đều có mức lãi suất tiền gửi nội tệ, ngoại tệ 0%/năm. Thậm chí, một số nước còn duy trì lãi suất âm (thu phí tiền gửi), nhằm bảo đảm lãi suất cho vay cực thấp (2-5% tùy thuộc đối tượng vay và thời hạn vay). Lãi suất thấp nhằm kích thích hệ thống doanh nghiệp và thị trường chứng khoán phát triển, đảm bảo an sinh xã hội, tạo điều kiện cho người thu nhập thấp và trung bình mua nhà ở, chi tiêu tiêu dùng...
Hiệp hội này dẫn chứng các nước trong khối ASEAN như Thái Lan, Philipine, Malaysia, Singapore đang có lãi suất tiền gửi ngắn hạn với đồng nội tệ ở mức 0%, lãi suất tiền gửi dài hạn từ 0,2-0,7%/năm.
Còn với Việt Nam, tiền gửi VNĐ ngắn hạn và trung hạn đang ở mức từ 3,5 - 6,2%/năm là rất cao so với các nước, dẫn đến lãi suất cho vay cao. Lãi cao gây bất lợi lớn cho cộng đồng doanh nghiệp cũng như đông đảo người tiêu dùng thuộc đối tượng thu nhập thấp và trung bình.
Hiệp hội này cho rằng, do Việt Nam chưa có được hệ thống giải pháp kiểm soát dòng tiền tiết kiệm và dòng tiền nhàn rỗi, để hướng dòng tiền vào các kênh đầu tư có lợi, cũng như ngăn chặn việc chảy vào các kênh không có lợi cho nền kinh tế, như bất động sản hay ngoại tệ.
VAFI khẳng định, hiện nền kinh tế Việt Nam đã có những tiền đề vững chắc như các nước trong khu vực, để có thể thực hiện đưa dần lãi suất tiền gửi về mức 0%/năm.
Cụ thể là chính trị ổn định; kinh tế đang và tiếp tục phát triển với tốc độ cao hơn các nước trong khu vực và một số nước Âu Mỹ. Đặc biệt, xuất khẩu tiếp tục tăng trưởng ở mức 2 con số, đã ở vị thế là quốc gia xuất siêu, và hàng năm thu được nguồn ngoại tệ rất lớn nhờ xuất khẩu liên tục tăng trưởng.
Cùng với đó, lượng kiều hối lớn hàng chục tỷ đô la gửi về. Nếu dịch Covid-19 được khống chế, ngành du lịch tiếp tục phát triển nhanh và hàng năm thu về hàng chục tỷ USD. Dự trữ ngoại tệ tại NHNN tiếp tục tăng mạnh.
Ngoài ra, thị trường chứng khoán phát triển mạnh thời gian qua, bất chấp dịch Covid-19. Thị trường trái phiếu cũng phát triển nhanh và đang từng bước thu hút các nhà đầu tư cá nhân tham gia. Hệ thống NH nội địa đã vững mạnh hơn trước rất nhiều…
VAFI nhấn mạnh giải pháp hạ thấp lãi suất tiết kiệm của NHNN có mặt tích cực là gửi tiền tiết kiệm không còn hấp dẫn như trước. Vì thế xuất hiện dòng tiền khổng lổ đổ vào thị trường chứng khoán, giúp hệ thống NH và doanh nghiệp trong nước phát triển, thêm nhiều khả năng chống chọi với khó khăn mới trong bối cảnh dịch bệnh.
"Mặt không tích cực này cản trở khả năng hạ lãi suất tiền gửi, và như vậy dư địa hạ thấp lãi suất cho vay không còn nhiều", VAFI nêu thực trạng.
Để có thể hạ dần lãi suất tiền gửi VNĐ về mức 0%/năm, VAFI đưa ra 5 giải pháp.
Một là, Bộ Tài chính khẩn trương xây dựng Luật Thuế tài sản, theo hướng hạn chế mạnh dòng tiền đầu cơ chảy vào thị trường bất động sản. Đồng thời kiểm soát để không cho tăng giá đất, áp dụng thu thuế tài sản lũy tiến từ căn nhà thứ hai trở đi, với phương châm ban đầu có thể ở mức thấp đủ để ngăn ngừa dòng tiền đầu cơ, sau đó tăng dần như các nước.
Giải pháp này, VAFI cho rằng là điều kiện tiên quyết để hạ nhanh lãi suất tiền gửi tiết kiệm.
Hai là, hướng mạnh dòng tiền nhàn rỗi chảy vào thị trường trái phiếu với lãi suất huy động thấp, ở mức dưới 2%/năm. Như vậy, hệ thống NH sẽ huy động được nguồn vốn khổng lồ với kỳ hạn dài, làm cơ sở cho vay trung hạn, dài hạn với lãi suất cho vay thấp dưới mức 5%/năm.
Nhưng để làm được việc này, Bộ Tài chính cần sửa chính sách để bỏ thuế chuyển nhượng trái phiếu, thuế lợi tức trái phiếu cho các tổ chức, cá nhân đầu tư, để hạ thấp lãi suất huy động.
NHNN cần rà soát luật hiện hành, để đảm bảo người dân khi đầu tư vào trái phiếu do NH phát hành, được đảm bảo tiền đầu tư như tiền gửi tiết kiệm. Cần thiết phải có chính sách bảo đảm này để hướng dòng tiền nhàn rỗi vào kênh đầu tư dài hạn.
Giải pháp thứ ba là, khi lãi suất tiền gửi đã giảm mạnh, để phòng trường hợp một phần dòng tiền nhàn rỗi đầu cơ ngoại tệ, NHNN cần ban hành chính sách thu phí tiền gửi ngoại tệ ở 1 mức nhất định, nhằm đảm bảo chính sách tỷ giá ổn định và không làm mất cân đối kinh tế vĩ mô…
Thứ tư, là kiểm soát chặt thâm hụt ngân sách hàng năm. Khi hết dịch Covid-19, tỷ lệ thâm hụt ngân sách và nợ công cần giảm dần, để tăng cường tiềm lực tài chính quốc gia, đủ sức đương đầu với mọi cuộc khủng hoảng có thể diễn ra trong tương lai.
Giải pháp cuối cùng, FAFI đề nghị hệ thống NH trong nước tiếp tục được củng cố theo hướng loại bỏ NH yếu kém, cải thiện cơ cấu cổ đông bằng tăng cường cổ đông tổ chức, cổ đông chiến lược thật sự; hạn chế dần tình trạng NH thuộc sở hữu của một tập đoàn, và phải ngăn ngừa tình trạng tham nhũng trong bất kỳ NH nào.