Phụ thuộc khu vực FDI
Ngay khi các DN FDI vào và XK tại Việt Nam, họ nhanh chóng chiếm lĩnh thị phần XK nước ta. Trên thế thượng phong, năm 2019 DN FDI XK chiếm 70,1%, lên 72,3% năm 2020 và đến 2021 lên 73,6%. Tổng kim ngạch XNK năm 2021 là 668,5 tỷ USD, FDI đóng góp tới 465,6 tỷ USD, chiếm 69,6%.
Tỷ trọng chung của FDI như vậy, nhưng tỷ trọng của khu vực này trong các mặt hàng XK chủ công càng áp đảo.
Đặc biệt, số DN FDI không nhiều, có lĩnh vực thua xa số DN nội, nhưng góp vào XK không kém cạnh. Chẳng hạn, mặt hàng đồ gỗ, tỷ trọng kim ngạch XK khối FDI 48% so với 52% của DN nội, trong khi số DN FDI chỉ chiếm 15% so với 85% DN nội trong tổng số DN đồ gỗ. Với các mặt hàng công nghệ càng cao, số DN FDI càng ít nhưng tỷ trọng XK càng nhiều.
Có địa phương phụ thuộc vào FDI rất lớn. Tỉnh Bắc Ninh năm 2021 XK đứng thứ 2 cả nước, đạt 44,8 tỷ USD, sát nút số 1 TPHCM. Song Bắc Ninh xuất siêu tới 6,5 tỷ USD, còn TPHCM nhập siêu 15,2 tỷ USD.
Đó không phải nội lực của Bắc Ninh, mà do tỉnh nhỏ nhất nước này thu hút FDI thuộc nhóm hàng đầu. Hình hài XK của Thái Nguyên, Bình Dương, Đồng Nai… cũng tương tự.
Phụ thuộc NK
Phụ thuộc NK
Chọn Việt Nam là điểm hẹn, các nhà FDI đều muốn được cung cấp linh kiện, phụ tùng, nguyên vật liệu tại chỗ để nhẹ giá thành đầu vào, chủ động sản xuất, nên đã khích lệ phát triển công nghiệp hỗ trợ (CNHT) tại Việt Nam.
Song đến nay CNHT vẫn ì ạch, nên khu vực FDI vẫn phải dựa vào nguyên vật liệu từ bên ngoài. Còn với ngành công nghiệp của ta phụ thuộc vào NK trầm trọng hơn FDI, cả lượng và chủng loại nguyên vật liệu phải NK nhiều hơn.
Thí dụ, thủy sản XK phải NK thủy sản nguyên liệu. XK nhân điều phải NK hạt điều thô. Chế biến gỗ phải NK gỗ tròn, gỗ dán, ván sợi…
Năm 2021, NK triệu tấn ngô để chế biến thực phẩm và làm thức ăn gia súc. Thế nhưng do CNHT yếu kém, công nghiệp chế biến nông phẩm cũng chẳng ra gì, nên cũng trong năm 2021 đã NK 4,8 tỷ USD thức ăn gia súc và nguyên liệu làm thức ăn gia súc.
Rước về các nhà máy điện chạy than, từ 2011 chúng ta liên tục phải NK than, năm 2021 là 35,7 triệu tấn, gấp 18 lần lượng than XK. Từ một quốc gia XK than chúng ta “tự chuyển hóa” thành cường quốc NK than. NK lớn nên phụ thuộc về số lượng, tiến độ, phẩm cấp, nước chủ hàng, ách tắc vận chuyển… và cuối cùng DN nội đều chịu trận.
Trong các đợt dịch Covid-19 vừa qua đã thấm đòn những hệ lụy đó. Vĩ mô quan ngại một, DN khốn đốn mười.
Phụ thuộc thị trường
Phụ thuộc thị trường
Việt Nam NK từ trên 90 thị trường, song chủ yếu NK từ Trung Quốc. Năm 2021, NK từ nước láng giềng này 109,8 tỷ USD, chiếm 1/3 tổng kim ngạch NK cả nước, tăng 30,4% so với 2020, trong khi NK cả nước tăng 25,5%.
Với các mặt hàng NK chính của Việt Nam, tỷ trọng NK từ Trung Quốc càng cao, thường chiếm ngôi đầu. Mặt hàng điện thoại và linh kiện NK từ Trung Quốc gần một nửa và đứng đầu, còn Hàn Quốc bám sát. 3 thị trường hàng đầu NK vải vào Việt Nam là Trung Quốc khoảng 60%, kế đến Hàn Quốc và Đài Loan.
Xơ sợi NK từ Trung Quốc đứng đầu trên 50%, thứ 2 là Đài Loan. Gỗ nguyên liệu NK từ 14-15 thị trường, nhiều nhất từ Trung Quốc…
Thị trường XK cũng bị phụ thuộc. Chúng ta đã ký Hiệp định thương mại song phương (FTA) Việt Nam - Mỹ, vào WTO, tham gia vào CPTPP, EVFTA cùng nhiều FTA khác, với nhiều ưu đãi, nhất là thuế với hàng XK của ta.
Những tưởng thị trường XK thênh thang hết cỡ, nhưng các nước lập tức “nhanh nhau chăng dây” bảo hộ, nơi nâng hàng rào kỹ thuật, chỗ đưa ra quy định kiểm soát với thời hạn từ khi ban hành tới lúc có hiệu lực cấp tốc hoặc quá rắc rối, ta không kịp xoay sở. Thủ tục kiểm định rườm rà, tốn kém. Tối mắt với các vụ kiện, áp thuế chống bán phá giá, trả lại hàng vi phạm; ách tắc tại cửa khẩu vì covid…
Trái cây cứ đến vụ thu hoạch là vất vả XK. Vụ ách tắc tại các cửa khẩu Lạng Sơn cuối năm 2021 là đỉnh cao, lập tới 3 kỷ lục: dài ngày nhất, nhiều xe đồng nghĩa với nhiều chủ hàng nhất. Nguyên nhân là chúng ta bị điểm “huyệt” vì… phụ thuộc.
Năm 2021 ta XK được 1 tỷ USD trở lên vào 33 thị trường, và cũng NK từ 1 tỷ USD trở lên từ 24 thị trường. Nhưng do chủ thể XK và NK ở từng thị trường lệch pha, nên không thể dùng XK để hối thúc đối tác phải gia tăng NK từ Việt Nam. Ngược lại, không thể dùng lợi thế từ NK để ràng buộc bên kia XK sang Việt Nam những thiết bị, vật tư kỹ thuật ta mong muốn.
Mỹ là thị trường XK số 1 của Việt Nam, xuất siêu sang Mỹ đứng số 1, nhưng chủ yếu là xuất siêu của khu vực FDI. Ngược lại, Trung Quốc là thị trường NK số 1 của Việt Nam, song cũng là thị trường số 1 nước ta nhập siêu. Nhập siêu từ Trung Quốc chủ yếu do XK của DN Việt quá ít trong khi phải NK quá nhiều.
Lối ra?
Lối ra?
Dù năm 2021 xuất siêu 4 tỷ USD, nối dài mạch xuất siêu 6 năm liền (2016-2021), song thực sự nhờ khu vực FDI xuất siêu 29,3 tỷ USD, còn DN Việt nhập siêu 25,3 tỷ USD. Cần hiểu rằng nhập siêu của khối DN nội mới là ruột gan của XNK, tức của kinh tế Việt Nam.
Trước thực trạng này, phải phát triển CNHT theo hướng ưu tiên với một số ngành trọng điểm, kết nối các DN sản xuất nguyên phụ liệu trong nước thay thế dần nguồn NK. Tái cơ cấu sản xuất với kỹ thuật hiện đại, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa. Đồng thời phát triển dịch vụ logistics và sản xuất container.
Chuyển biến mạnh chế biến nông sản; đa dạng hóa thị trường. Tận dụng cơ hội, hạn chế thách thức từ các FTA. Tăng cường năng lực phòng vệ thương mại cùng với việc đổi mới điều hành XNK…