Cần chính sách tài khóa nghịch chu kỳ

(ĐTTCO) - Nếu không có những đột phá chính sách, tăng trưởng kinh tế vẫn sẽ phụ thuộc vào xuất khẩu và đầu tư nước ngoài, nhưng tốc độ tăng trưởng chỉ ở mức vừa phải và khó để thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình.

Cần chính sách tài khóa nghịch chu kỳ

Những rủi ro khi dựa vào xuất khẩu và FDI

Việt Nam đang đặt mục tiêu tăng trưởng GDP ít nhất 8% cho năm 2025 và hai con số trong những năm tiếp theo, nhằm đưa nền kinh tế từ một nước thu nhập trung bình hiện nay trở thành nước thu nhập cao vào năm 2045. Tức tốc độ tăng trưởng GDP phải bật cao.

Nhưng chưa năm nào Việt Nam đạt được mức tăng trưởng 10%, và tốc độ tăng trưởng lại đang có xu hướng giảm dần qua các thời kỳ. Trung bình trong giai đoạn 1990-2024, tốc độ tăng trưởng GDP đạt khoảng 6,73%/năm.

Việt Nam đang có xu hướng chuyển từ mô hình tăng trưởng dựa vào xuất khẩu, sang mô hình tăng trưởng dẫn dắt bởi đầu tư công, các chính sách tài khóa và tiền tệ đang có xu hướng mở rộng hơn, đặt Việt Nam trước những rủi ro lớn hơn về thâm hụt tài khóa, lạm phát, sự mất giá của đồng nội tệ và bong bóng giá tài sản.

Giống như nhiều quốc gia thành công ở khu vực Đông Á trước đây, trong hơn 3 thập niên qua, Việt Nam đã và đang lựa chọn mô hình tăng trưởng dựa vào đầu tư nước ngoài (FDI) và hướng ra xuất khẩu.

Đầu những năm 1990, tỷ trọng xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ trong GDP của Việt Nam chỉ dưới 30%. Con số này tăng lên trên 50% vào những năm 2000, và trên 80% trong những năm gần đây.

Xuất khẩu lại phụ thuộc vào các thị trường lớn như Mỹ, EU hay Nhật Bản. Khi tăng trưởng kinh tế ở các nước này chậm lại, xuất khẩu, tăng trưởng và việc làm của Việt Nam chịu ảnh hưởng tiêu cực rõ rệt.

PGS.TS_.jpg

Căng thẳng thương mại giữa các nước lớn cộng với chính sách thuế quan đối ứng của Mỹ hiện nay, đã gây bất lợi lớn và đặt ra những thách thức mới cho mô hình tăng trưởng truyền thống. Nếu không có sự đột phá về chính sách, có thể dự đoán rằng, trong thời gian tới tăng trưởng kinh tế của Việt Nam vẫn sẽ tiếp tục phụ thuộc chính vào xuất khẩu và FDI.

Khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo có thể sẽ dần có vai trò quan trọng hơn, tuy nhiên rất khó trở thành động lực chính cho tăng trưởng kinh tế.

Kinh tế vĩ mô tốt sẽ nuôi dưỡng tăng trưởng

Trong bất kể mô hình tăng trưởng nào, các chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô (tiền tệ và tài khóa) luôn có vai trò quan trọng. Các chính sách kinh tế vĩ mô tốt sẽ nuôi dưỡng tăng trưởng.

Tăng trưởng cao lại tạo nền tảng cho sự ổn định kinh tế vĩ mô. Ngược lại, những chính sách kinh tế vĩ mô kém hoặc các cú sốc bên ngoài, có thể đưa nền kinh tế vào tình trạng bất ổn và đình trệ sản xuất.

Tăng trưởng kinh tế cao sẽ cải thiện tình trạng tài chính công, bởi làm tăng thu ngân sách nhà nước. Trạng thái lành mạnh của ngân sách lại góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, bằng cách giảm rủi ro nợ công và gánh nặng nợ lãi.

Chính sách tài khóa lành mạnh cũng tránh được việc in ấn tiền tệ (trực tiếp hoặc gián tiếp) để tài trợ cho chi tiêu công, từ đó gây áp lực lạm phát, bong bóng giá tài sản hoặc mất giá tiền tệ.

Tuy nhiên, nếu tăng trưởng thấp, sức khỏe tài chính công sẽ yếu đi, lạm phát cao sẽ xuất hiện và dẫn đến đình lạm (đình trệ sản xuất cộng với lạm phát cao). Tình trạng này sẽ làm suy yếu và gây ra rủi ro cho hệ thống tài chính, và cuối cùng là dẫn đến suy thoái/khủng hoảng kinh tế.

Để có được sự đột phá về tăng trưởng, đồng thời tránh rơi vào vòng luẩn quẩn tăng trưởng thấp rồi dẫn đến thâm hụt tài khóa, lạm phát cao, đình trệ sản xuất, sau đó là hệ thống tài chính suy yếu, và cuối cùng là suy thoái kinh tế, Việt Nam phải lựa chọn được các chính sách kinh tế vĩ mô có khả năng thu hút được các nguồn lực trong nước vào sản xuất. Đồng thời phòng chống và giảm thiểu được các cú sốc tác động xấu tới xuất khẩu và khả năng cạnh tranh của quốc gia.

Với chính sách tài khóa, mục tiêu cao nhất phải là thúc đẩy được tăng trưởng trong dài hạn và đảm bảo tính bền vững của nợ công, thể hiện qua sự ổn định của quy mô nợ công trong mối tương quan với GDP, và khả năng thu thuế của Chính phủ.

Nghĩa vụ trả nợ gốc và nợ lãi hàng năm/thu ngân sách phải được duy trì ở mức thấp, nhằm đảm bảo nguồn lực cho đầu tư phát triển. Cơ cấu thu - chi ngân sách phải được cải thiện theo hướng tăng tính bền vững của các nguồn thu và giảm chi cho tiêu dùng của bộ máy nhà nước.

Chính sách tài khóa nghịch chu kỳ

Chính sách tài khóa nên được thực hiện theo hướng nghịch chu kỳ kinh tế, tức là thắt chặt/thận trọng trong thời kỳ tăng trưởng cao, và mở rộng/hào phóng trong thời kỳ nền kinh tế gặp phải các cú sốc tiêu cực. Một chính sách luôn mở rộng trong mọi thời kỳ sẽ không tạo được dư địa (đệm) tài khóa hỗ trợ cho nền kinh tế khi gặp khó khăn.

Để tăng trưởng kinh tế cao và bền vững, cần xây dựng kế hoạch dài hạn cụ thể, tạo chính sách hỗ trợ (thuế, tín dụng và môi trường kinh doanh) cho các ngành mũi nhọn, có lợi thế cạnh tranh. Đẩy mạnh đào tạo nhân lực chất lượng cao và đầu tư cho R&D. Tăng cường đầu tư công một cách hiệu quả vào các dự án cơ sở hạ tầng trọng điểm…

Để có đủ nguồn lực tài chính cho các dự án hạ tầng lớn, yếu tố then chốt để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế hai con số, Việt Nam cần thực hiện đồng thời nhiều giải pháp quan trọng.

Thứ nhất, cần thu hẹp đáng kể chi thường xuyên của bộ máy nhà nước.

Thứ hai, tích cực tìm kiếm các nguồn thu bền vững mới để thay thế một phần cho các nguồn thu truyền thống, như cân nhắc đánh thuế căn nhà thứ hai trở đi bởi nhiều lợi ích mà sắc thuế này có thể đem lại. Áp dụng chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp dựa trên tỷ lệ nội địa hóa của các doanh nghiệp xuất khẩu.

Trong bối cảnh căng thẳng thương mại gia tăng và nguy cơ các quốc gia như Mỹ áp đặt thuế quan cao, việc sửa đổi/cắt giảm gánh nặng thuế thu nhập cá nhân nên được thực hiện để Việt Nam kích thích tiêu dùng nội địa, qua đó bù đắp một phần sụt giảm từ hoạt động xuất khẩu.

Điều này không chỉ tạo ra động lực tăng trưởng mới cho nền kinh tế từ phía cầu nội địa, mà còn giúp giảm thiểu rủi ro phụ thuộc quá mức vào xuất khẩu, đặc biệt khi các thị trường lớn có thể áp dụng các rào cản thương mại.

Các tin khác